Bản án 31/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thị M, sinh năm 1981 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi cư trú: Số 45Q1, khu phố L, thị trấn Đ, huyện I, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không đi học; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông (không rõ) và bà Lê Thị N; có chồng là Nguyễn Văn H và 10 người con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền sự: Không 

Tiền án (01): Bản án số 151/2010/HSST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Hiện bị cáo đang được hoãn chấp hành hình phạt theo Quyết định hoãn chấp hành phạt tù số 12/2018/QĐ-CA ngày 12/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Về nhân thân:

- Quyết định số 5283/QĐ.UB ngày 25/10/1999 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc đưa Lê Thị M vào cơ sở giáo dục với thời hạn 18 tháng về hành vi trộm cắp tài sản.

- Bản án số 14/2007/HSST ngày 02/11/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt Lê Thị M 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt)

- Bị hại: Chị Vũ Thị Hồng A, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số 79 đường Trần Chánh C, tổ 7, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người tham gia tố tụng khác: Bà Lê Thị P, sinh năm 1980

Địa chỉ: Tổ 7, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/01/2019, Lê Thị M đi bán vé số dạo tại khu vực thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Khi đi ngang nhà của chị Vũ Thị Hồng A, M nhìn thấy cửa mở, quan sát bên trong nhà chị A không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. M lén lút vào nhà chị A lấy trộm một máy tính bảng hiệu Ipad Pro 9.7 inch rồi giấu vào bên trong áo khoác. Khi M rời khỏi nhà chị A được một đoạn thì bị chị A cùng người dân nghi ngờ nên đã đuổi theo bắt giữ M cùng tang vật.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 123/KL ngày 30/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bà Rịa xác định:

Một máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Pro 9.7 inch, 28.45GB, phiên bản 10.3.3, IMEI 355652070442370, màu vàng đồng có trị giá 10.117.000 đồng.

Cáo trạng số 31/CT-VKSBR ngày 08/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa đã truy tố Lê Thị M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

* Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát:

Giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. 

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm n, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật hình sự xử phạt Lê Thị M từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù tại Bản án số 151/2010/HSST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 Bản án từ 18 tháng đến 21 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không giải quyết.

Về vật chứng: Đối với 02 tờ vé số mang số 493996 và 730320 của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh D là tài sản của bị cáo nhưng hiện nay không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

* Lời khai của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Bị cáo không có ý kiến bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa, của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nêu trên. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Xét lời khai của bị cáo Lê Thị M tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại về tài sản bị chiếm đoạt và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ đó, đã xác định được vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/01/2019, bị cáo đã có hành vi lén lút vào nhà chị Vũ Thị Hồng A tại số 79 đường Trần Chánh C, tổ 7, khu phố 3, phường T, thành phố B và lấy trộm tài sản của chị A là 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Pro 9.7 inch, có trị giá 10.117.000 đồng.

Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Thị M đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còngây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân rất xấu. Từ năm 1999 đến năm 2010 bị cáo đã nhiều lần bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính cũng như bị xử phạt tù về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cảnh tỉnh bản thân mà lại tiếp tục phạm tội mới. Do đó, đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt tù thật nghiêm khắc để nhằm răn đe, giáo dục đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nên bị áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ:

Xét tại thời điểm phạm tội thì bị cáo đang có thai; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi ngay nên chưa gây thiệt hại. Do đó, bị cáo được áp dụng các điểm h, n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về tổng hợp hình phạt:

Xét tại Bản án hình sự sơ thẩm số 151/2010/HSST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và đến nay bị cáo vẫn chưa chấp hành hình phạt tù. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự để tổng hợp với hình phạt của Bản án nêu trên đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Chị A không yêu cầu nên không giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với tài sản bị chiếm đoạt đã được trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật nên đã giải quyết xong.

Đối với 02 tờ vé số mang số 493996 và 730320 của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh D là tài sản của bị cáo nhưng hiện nay không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thị M phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; các điểm h, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị M 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 151/2010/HSST ngày 14/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, buộc bị cáo Lê Thị M phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy 02 tờ vé số mang số 493996 và 730320 của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh D hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 39/BB.THA ngày 09/5/2019.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Thị M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm (đối với người vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;