Bản án 31/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Ngô Thị Mỹ L; Sinh ngày: 28/6/1993; Tại: Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Thường trú: Ấp MH, xã LM, huyện ĐĐ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn H và bà: Trần Thị H; Có chồng: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 01/11/2018.(có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 45 phút ngày 01/11/2018, Liên ngành Công an Quận 6 (Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Đội cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, Đội cảnh sát hình sự, Đội cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Công an Phường 11, Quận 6) kiểm tra hành chính quán Karaoke Vip 366 tại địa chỉ 366 đường Chợ Lớn, Phường 11, Quận 6 thì phát hiện tại phòng 305 có một số đối tượng gồm: Ngô Thị Mỹ L, Bùi Mạnh H, Lê Việt C, Lê Thị Tuyết N, Nguyễn Thị Minh T, Hoàng Thị Thanh H, Phạm Thị N, Phạm Thanh T, Nguyễn Lê Thanh N, Nguyễn Thị Vân A, Vũ Minh C, Nguyễn Thành T, Đặng Tùng L, Lê Thị Kim N, Võ Thị Cẩm T, Lợi Thiên T, Nguyễn Ngọc M, Phùng Thanh T, Bùi Quang L, Ngô Thanh T, Danh B, Phạm Trung K, Lâm Văn Đ, Nguyễn Đình N, Đào Văn P, Nguyễn Trung N, Hà Văn T, Nguyễn Duy T đang hát karaoke. Qua kiểm tra đã thu giữ trong túi xách màu đen của Ngô Thị Mỹ L 01 viên nén hình tròn màu xanh dương (L khai là ma túy dạng thuốc lắc). Ngoài ra, lực lượng liên ngành còn thu giữ tại phòng 305 05 gói nylon chứa tinh thể không màu, 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng, 01 gói nylon chứa viên nén màu xám. Sau đó, đã giao các đối tượng này cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Ngô Thị Mỹ L khai: Khoảng 00 giờ ngày 01/11/2018, Ngô Thị Mỹ L, Lê Thị Tuyết N, Nguyễn Thị Minh T đến phòng 305 quán Karaoke Vip 366 để hát karaoke theo lời mời của một người tên D (bạn của T). Đến 01 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng liên ngành kiểm tra bắt giữ như nêu trên. Về nguồn gốc viên nén hình tròn màu xanh dương mà Công an thu giữ trong túi xách màu đen là của M (không rõ lai lịch) cho L vào tối ngày 28/10/2018 tại quán Bar 212, Quận 1 để sử dụng. Riêng số ma túy thu giữ trong phòng 305 không phải của L và L không biết số ma túy này là của ai.

Bùi Mạnh H, Lê Việt C, Lê Thị Tuyết N, Nguyễn Thị Minh T, Hoàng Thị Thanh H, Phạm Thị N, Phạm Thanh T, Nguyễn Lê Thanh N, Nguyễn Thị Vân A, Vũ Minh C, Nguyễn Thành T, Đặng Tùng L, Lê Thị Kim N, Võ Thị Cẩm T, Lợi Thiên T, Nguyễn Ngọc M, Phùng Thanh T, Bùi Quang L, Ngô Thanh T, Danh B, Phạm Trung K, Lâm Văn Đ, Nguyễn Đình N, Đào Văn P, Nguyễn Trung N, Hà Văn T, Nguyễn Duy T đều khai không biết số ma túy mà Công an thu giữ tại phòng 305 quán Karaoke Vip 366 là của ai và những người này cũng xác nhận không biết việc L cất giữ ma túy trong bóp.

Tại Kết luận giám định số: 1790/KLGĐ-H ngày 09 tháng 11 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:

- Gói 1: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định, bên trong có:

+ Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,5359g (năm phẩy năm ba năm chín gam), loại Ketamine.

+ 01 viên nén màu xám trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2493g (không phẩy hai bốn chín ba gam), loại MDMA.

- Gói 2: Bột màu trắng trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,8486g (không phẩy tám bốn tám sáu gam), loại Ketamine.

- Gói 3: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6008g (không phẩy sáu không không tám gam), loại Methamphetamine.

- Gói 4: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3026g (một phẩy ba không hai sáu gam), loại Methamphetamine.

- Gói 5: 01 viên nén hình tròn màu xanh dương trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến), Ngô Thị Mỹ L và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3505g (không phẩy ba năm không năm gam), loại MDMA.

- Gói 6: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2408g (một phẩy hai bốn không tám gam), loại Ketamine.

- Gói 7: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Đổng Kim Phát (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7130g (không phẩy bảy một ba không gam), loại Methamphetamine.

Đối với Bùi Mạnh H, Nguyễn Thị Minh T, Đặng Tùng L, Liễu Thị Hồng P, Lợi Thiên T, Nguyễn Ngọc M, Ngô Thanh T, Danh B, Phạm Trung K, Nguyễn Duy T, tuy có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính.

Đối với Lê Việt C, Lê Thị Tuyết N, Hoàng Thị Thanh H, Phạm Thị N, Phạm Thanh T, Nguyễn Lê Thanh N, Nguyễn Thị Vân A, Vũ Minh C, Nguyễn Thành T, Lê Thị Kim N, Võ Thị Cẩm T, Phùng Thanh T, Bùi Quang L, Lâm Văn Đ, Nguyễn Đình N, Đào Văn P, Nguyễn Trung N, Hà Văn T, không liên quan đến hành vi phạm tội của Ngô Thị Mỹ L, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Còn người đàn ông tên Minh đưa ma túy cho Ngô Thị Mỹ L, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 23/CT-VKS.Q6 ngày 18 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Ngô Thị Mỹ L về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Thị Mỹ L khai: Khoảng 00 giờ ngày 01/11/2018, D (không rõ lai lịch) mời bị cáo, Lê Thị Tuyết N, Nguyễn Thị Minh T đến phòng 305 quán Karaoke Vip 366 để hát karaoke cùng với một số người bạn của D. Đến 01 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng liên ngành kiểm tra và đã thu giữ trong túi xách màu đen (loại ví cầm tay) của bị cáo 01 viên nén hình tròn màu xanh dương (dạng thuốc lắc). Viên nén này là của M (không rõ lai lịch) cho bị cáo vào tối ngày 28/10/2018 tại quán Bar 212 trên đường Cống Quỳnh, Quận 1 và bị cáo cất trong túi xách để dành sử dụng. Còn số ma túy thu giữ trong phòng 305 không phải của bị cáo và bị cáo cũng không biết số ma túy này là của ai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Ngô Thị Mỹ L như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Ngô Thị Mỹ L từ 02 năm đến 03 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điếu 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1790(5)/18.Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 túi xách màu đen.

Trả lại bị cáo Ngô Thị Mỹ L 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu trắng, bên ngoài có ghi chữ Iphone, bên trong có 01 sim điện thoại số seri: 8401180750524974 GĐ (có ghi chữ Mobifone); 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen xám, số Imei: 351546006700684 và 01 sim điện thoại số seri: 8984048000012626206 (có ghi chữ Viettel).

Còn 06 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1790(1)/2018.Q6, 1790(2)/2018.Q6, 1790(3)/2018.Q6, 1790(4)/2018.Q6, 1790(6)/2018.Q6, 1790/2018.Q6, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, không phải là vật chứng trong vụ án này, nên đề nghị giao Công an Quận 6 để điều tra, làm rõ xử lý sau.

Lời nói sau cùng, bị cáo Ngô Thị Mỹ L nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Ngô Thị Mỹ L tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ tang vật, Kết luận giám định và lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ngô Thị Mỹ L đã cất giữ 0,3505 gam ma túy ở thể rắn (loại MDMA ) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Ngô Thị Mỹ L không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Ngô Thị Mỹ L là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Thị Mỹ L là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và MDMA nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác , do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án - tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Ngô Thị Mỹ L còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do thu nhập không ổn định, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1790(5)/18.Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 túi xách màu đen (bị cáo Ngô Thị Mỹ L dùng cất giữ ma túy), là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu trắng, bên ngoài có ghi chữ Iphone, bên trong có 01 sim điện thoại số seri: 8401180750524974 GĐ (có ghi chữ Mobifone); 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen xám, số Imei: 351546006700684 và 01 sim điện thoại số seri: 8984048000012626206 (có ghi chữ Viettel) thu giữ của bị cáo Ngô Thị Mỹ L. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định do bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 06 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1790(1)/2018.Q6, 1790(2)/2018.Q6, 1790(3)/2018.Q6, 1790(4)/2018.Q6, 1790(6)/2018.Q6, 1790/2018.Q6 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, Viện kiểm sát xác định không phải là vật chứng trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử giao lại Công an Quận 6 để điều tra, làm rõ và xử lý sau. (theo hai Phiếu nhập kho vật chứng số: 01/PNK ngày 07 tháng 01 năm 2019 và số: 06/PNK ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL43A, 67).

[6] Đối với Bùi Mạnh H, Nguyễn Thị Minh T, Đặng Tùng L, Liễu Thị Hồng P, Lợi Thiên T, Nguyễn Ngọc M, Ngô Thanh T, Danh B, Phạm Trung K, Nguyễn Duy T, tuy có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng Viện kiểm sát xác định chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với Lê Việt C, Lê Thị Tuyết N, Hoàng Thị Thanh H, Phạm Thị N, Phạm Thanh T, Nguyễn Lê Thanh N, Nguyễn Thị Vân A, Vũ Minh C, Nguyễn Thành T, Lê Thị Kim N, Võ Thị Cẩm T, Phùng Thanh T, Bùi Quang L, Lâm Văn Đ, Nguyễn Đình N, Đào Văn P, Nguyễn Trung N, Hà Văn T, nhưng Cơ quan điều tra xác định những người này chỉ đến để hát Karaoke, không sử dụng ma túy và cũng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Thị Mỹ L, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với người đàn ông tên Minh mà bị cáo Ngô Thị Mỹ L khai là người cho bị cáo viên nén hình tròn màu xanh dương, Cơ quan điều tra không xác định được, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Ngô Thị Mỹ L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Ngô Thị Mỹ L phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Ngô Thị Mỹ L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/11/2018.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1790(5)/18.Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương; 01 (một) túi xách màu đen.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Ngô Thị Mỹ L 01 (một) chiếc điện thoại di động vỏ màu trắng, bên ngoài có ghi chữ Iphone, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số seri: 8401180750524974 GĐ (có ghi chữ Mobifone); 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen xám, số Imei: 351546006700684 và 01 (một) sim điện thoại số seri: 8984048000012626206 (có ghi chữ Viettel).

Giao lại Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh 06 (sáu) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1790(1)/2018.Q6, 1790(2)/2018.Q6, 1790(3)/2018.Q6, 1790(4)/2018.Q6, 1790(6)/2018.Q6, 1790/2018.Q6, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương để điều tra, làm rõ và xử lý sau, do đây không phải là vật chứng trong vụ án này.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Ngô Thị Mỹ L phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Ngô Thị Mỹ L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;