Bản án 31/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 31/2019/HSST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 50/2019/HSST, ngày 28 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST- HS ngày 12/02/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân Đ, Sinh ngày 08/10/1989; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ A, phường CG, thành phố TN, tỉnh TN ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1958 và con bà: Tạ Thị B, sinh năm 1959; Gia đình có 02 anh em, bị can là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Có 04 tiền án:

+ Tại bản án số 343/2010/HSST ngày 25/10/2010, Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 09 tháng tù giam về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

+ Tại bản án số 347/2010/HSST ngày 11/11/2010, Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 12 tháng tù giam về tội: “Hủy hoại tài sản”.

+ Tại bản án số 27/2012/HSST ngày 28/3/2012, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh TN xử phạt 42 tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt còn lại của 02 bản án trên buộc Nguyễn Xuân Đ chấp hành hình phạt chung là 44 tháng 03 ngày tù giam.

+ Tại bản án số 390/2012/HSST ngày 28/9/2012, Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 30 tháng tù giam về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 27/2012/HSST ngày ngày 28/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh TN, buộc Nguyễn Xuân Đ chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 74 tháng 03 ngày tù giam. Ra trại ngày 31/5/2018.

- Tiền sự: Không.

Hiện bị can đang tại ngoại tại nơi cư trú (bị can không bị tạm giữ, tạm giam).

(Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1976 ( vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ A, phường TL, thành phố TN, tỉnh TN.

2. Ông Vũ Quang M, sinh năm 1961 ( vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ A, phường TL, thành phố TN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 50 phút ngày 20/11/2018, tổ công tác của Công an phường TL, thành phố TN đang tuần tra, kiểm soát tại khu vực tổ A, phường TL, thành phố TN phát hiện 01 nam thanh niên (sau xác định là Nguyễn Xuân Đ) có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, kiểm tra, phát hiện tại túi quần bên trái phía trước Đ đang mặc 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. Đ khai là Heroine của Đ. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng có trong 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu trắng thu giữ của Đ là: 0,179 gam; Lấy toàn bộ số chất bột màu trắng trên cho vào bì niêm phong ký hiệu Đ gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 48 ngày 28/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu Đ gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,179 gam

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân Đ khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/11/2018, Đ đi đến khu vực bến xe buýt trên đường Thống Nhất thuộc tổ A, phường TL, thành phố TN để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, Đ gặp và mua của 01 nam thanh niên không quen biết 50.000 đồng được 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng. Đ cất gói Heroine tại túi quần bên trái phía trước Đ đang mặc và Đ tiếp tục đưa cho nam thanh niên trên 5.000 đồng và nhờ nam thanh niên mua hộ xi lanh để sử dụng ma túy. Khi Đ đang đứng chờ nam thanh niên đi mua xi lanh thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 47/CT-VKSTPTN ngày 24/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng : Điểm o, khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt: bị cáo Nguyễn Xuân Đ từ 06 đến 07 năm tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đ.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đ phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo Đ không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo Đ nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TN trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 08 giờ 50 phút ngày 20/11/2018, tại khu vực tổ A, phường TL, thành phố TN, Nguyễn Xuân Đ đang tàng trữ 0,179 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của của Công an phường TL, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân Đ đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố các bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đứng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định:

““1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

o, Tái phạm nguy hiểm.”.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đ có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân rất xấu, có 04 tiền án chưa được xóa án tích, tại Bản án số 27/2012/HSST ngày 28/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh TN, bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Đ (bên trong chứa ma túy).

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi Hành án dân sự thành phố TN, biên bản giao nhận vật chứng số 126 ngày 22/01/2019).

[7] Án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, theo Nguyễn Xuân Đ khai đã mua của một nam thanh niên không quen biết. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm o, khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51BLTTHS năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân Đ 6 ( sáu) năm tù giam. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi thi hành bản án.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 :

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đứng quy định ký hiệu: Đ, ( bên trong chứa ma túy).

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN, biên bản giao nhận vật chứng số 126 ngày 22/01/2019).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Nguyễn Xuân Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;