Bản án 31/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 11 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Phan Đình P, tên gọi khác: Punl, sinh năm 1993; hộ khẩu thường trú: ấp A, xã B, huyện C, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An; nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Phan Thị L, sinh năm 1958; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: không; tiền án: ngày 14/4/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, - chấp hành án xong ngày 30/4/2017; ngày 20/4/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bị cáo bị xét xử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự - bị cáo kháng cáo); ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” - chấp hành xong ngày 03/02/2019; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Phan Đình P: Ông Nguyễn Năm Triệu - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Long An. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Tạ Thanh S - Sinh năm 1989; (có mặt)

2. Ông Lâm Quốc M - Sinh năm 1992; (có mặt)

3. Ông Giang Minh N - Sinh năm 1988. (có mặt)

Cùng địa chỉ: Công an xã B, huyện C, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, đồng chí Võ Văn Thừa, Trưởng Công an xã B đang trực tại trụ sở thì nhận được điện thoại của quần chúng nhân dân báo Công an đến để giải quyết vụ việc. Lý do Phan Đình P có hành vi đập bể kính xe ô tô của ông Phan Khắc Điệp và ông Lê Minh Hòa. Đồng chí Thừa phân công hai đồng chí công an viên thường trực gồm Tạ Thanh S và Lâm Quốc M đến nhà mời P về trụ sở làm việc. Khi hai đồng chí Công an viên đến thì P lấy 01 con dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa màu vàng bỏ vào túi quần nhưng người nhà khuyên ngăn nên lấy lại được. Sau khi đồng chí S mời P về trụ sở, P đồng ý và nói vào nhà mặc áo. Tuy nhiên, P quay vào nhà lấy 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 40 cm, cán cầm bằng gỗ hình chữ nhật và 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 40 cm, cán bằng gỗ hình tròn truy đuổi lực lượng Công an. Khi P cầm dao chạy về phía đồng chí S thì đồng chí S dùng nón bảo hiểm ném về phía P để ngăn cản sự truy đuổi nhưng P vẫn tiếp tục đuổi theo nên đồng chí S quay người bỏ chạy. P cầm dao đuổi theo làm đồng chí S ngã xuống ruộng. Lúc này, đồng chí Giang Minh N, Phó trưởng Công an xã B vừa đến hiện trường, khi thấy đồng chí S bị P rượt đuổi ngã thì đồng chí N dùng súng bắn cảnh cáo, khi nghe tiếng súng P quay lại tiếp tục dùng dao truy đuổi đồng chí N, đồng chí N đã nổ phát súng thứ hai, lúc này P mới dừng lại và đi vào nhà. Công an xã B lập biên bản bắt quả tang P đưa về trụ sở làm việc, tại đây P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tang vật tạm giữ:

- 01 con dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa màu vàng;

- 01 con dao bằng kim loại màu đen, dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình chữ nhật;

- 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình tròn.

Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 13/5/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ truy tố bị cáo Phan Đình P về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phan Đình P phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phan Đình P từ 12 đến 18 tháng tù.

Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa màu vàng; 01 con dao bằng kim loại màu đen, dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình chữ nhật; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình tròn.

Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Tạ Thanh S, ông Lâm Quốc M và ông Giang Minh N, tại phiên tòa trình bày: Ông S và M được phân công nhiệm vụ mời P về trụ sở làm việc, khi đến nhà P chống đối không chấp hành, ngoài ra còn có hành vi dùng dao tấn công ông S. Khi ông N đến nơi bắn súng cảnh cáo P vẫn tiếp tục có hành vi chống đối, sau phát súng thứ hai P mới dừng lại. Tuy nhiên, không gây thương tích nên không yêu cầu bồi thường.

Đối với hành vi hủy hoại tài sản của P, Công an huyện Đức Huệ đã ra Quyết định xử lý hành chính số 01/QĐ-XPVPHC ngày 20/4/2019 số tiền 3.500.000 đồng - đã thi hành xong, nên không đề cập xem xét.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Vì các lý do: bị cáo do thiếu nhận thức về pháp luật, có tiền án, say rượu nên khi người thi hành công vụ đến nhà sợ bị bắt đi tù nên có hành vi bộc phát chống đối; bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng; gia đình thuộc diện hộ nghèo; cha vừa mất, mẹ già; bản thân là lao động chính trong gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, Công an xã B làm nhiệm vụ mời P về trụ sở làm việc liên quan đến hành vi đập phá xe. P không chấp hành mà có hành vi dùng dao chống đối, đe dọa như: truy đuổi chém đồng chí S nên đồng chí S dùng nón bảo hiểm tự vệ và chạy ra ruộng thì bị ngã. Sau đó, Công an bắn súng cảnh cáo hai phát P mới dừng lại và bị khống chế bắt giữ.

[2] Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Cơ quan cảnh sát điều tra, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên đều thực hiện đúng và hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng biên bản bắt người phạm tội quả tang do công an xã B lập lúc 16 giờ 30 ngày 01/3/2019 và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã có đủ bằng chứng khách quan để kết luận rằng bị cáo P phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự. Như vậy, cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 13/5/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo P đã xâm phạm đến hoạt động quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý hành chính nói riêng của các cơ quan Nhà nước thông qua hoạt động của các nhân viên Nhà nước, mà cụ thể là lực lượng chức năng Công an xã B, mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Bản thân bị cáo có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, do ngày 20/4/2018 bị cáo bị xét xử về tội ‘Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, vì vậy, lần phạm tội này của bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dụng và phòng ngừa.

[5] Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình (cha bị cáo vừa chết) là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên khi lượng hình cũng cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở theo quy định pháp luật.

[7] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về mức hình phạt là nhẹ so với hành vi của bị cáo. Vì bị cáo đã hai lần bị Tòa án xét xử nên không thể nói bị cáo thiếu nhận thức về pháp luật nên có hành vi bộc phát nhất thời; hơn nữa không làm chủ được hành vi do uống rượu, bia không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

[9] Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa màu vàng; 01 con dao bằng kim loại màu đen, dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình chữ nhật; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình tròn.

Tang vật do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Huệ quản lý.

[10] Đối với hành vi P hủy hoại tài sản của ông Hòa, ông Điệp đã bị Công an huyện Đức Huệ xử phạt hành chính nên không đề cập giải quyết.

[11] Bị cáo Phan Đình P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135, Điều 136, Điều 299, Điều 326, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố bị cáo Phan Đình P phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

3. Xử phạt bị cáo Phan Đình P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01/3/2019). Tiếp tục tạm giam bị cáo P 45 ngày để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

4. Về các biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa màu vàng; 01 con dao bằng kim loại màu đen, dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình chữ nhật; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 40 cm, cán dao bằng gỗ hình tròn.

Tang vật do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Huệ quản lý.

5. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Đình P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 11/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;