TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 31/2019/DS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ HỤI
Ngày 08 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 266/2019/TLST-DS ngày 14 tháng 6 năm 2019 về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2019/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đỗ Cẩm E, sinh năm 1956.
Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã AP, huyện TB, tỉnh ĐT.
- Bị đơn: 1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1961.
2. Bà Đỗ Thị Bé H, sinh năm 1960.
Hiện nay bà Đỗ Thị Bé H bệnh tâm thần theo Kết luận giám định pháp y tâm thần số 207/2018/KLGĐTC ngày 25/10/2018 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ.
Người đại diện hợp pháp của bà Đỗ Thị Bé H: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1961 (Chồng bà Bé H).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp N, xã AP, huyện TB, tỉnh ĐT.
Bà Đỗ Cẩm E, ông Nguyễn Văn B có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn bà Đỗ Cẩm E trình bày:
Bà Đỗ Cẩm E có tham gia 02 dây hụi do bà Bé H làm chủ. Đến tháng 01/2018 bà Bé H tuyên bố vỡ hụi, sau khi đối chiếu bà Bé H còn nợ bà Cẩm E số tiền 22.400.000 đồng. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2019/HS-ST ngày 21/5/2019, xác định bà Bé H chiếm đoạt của bà Cẩm E số tiền 5.600.000 đồng, còn lại số tiền là 16.800.000 đồng là tiền nợ dân sự.
Nay bà Đỗ Cẩm E yêu cầu ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị Bé H liên đới trả cho bà Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng).
- Bị đơn ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị Bé H, người đại diện hợp pháp của bà Bé H là ông B trình bày:
Bà Nguyễn Thị Bé H có làm chủ hụi vào thời điểm năm 2016, năm 2017 đến tháng 01/2018 thì bà Bé H tuyên bố vỡ hụi. Ông B chỉ biết bà Bé H tham gia hụi và làm chủ hụi nhưng việc mở hụi, hốt hụi và đóng hụi chết giữa bà Bé H và các hụi viên cụ thể như thế nào thì ông B không biết. Ngoài ra, việc bà Bé H mua lại hụi, vay tiền của các hụi viên thì ông B cũng không biết.
Hiện nay, bà Bé H bị bệnh tâm thần theo Kết luận giám định pháp y tâm thần số 207/2018/KLGĐTC ngày 25/10/2018 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ nên ông B không xác định được hiện nay bà Bé H nợ những ai và nợ bao nhiêu tiền. Tuy nhiên, ông B đồng ý sử dụng tài sản của gia đình đã bị kê biên trong vụ án hình sự và được thể hiện trong Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2019/HS-ST ngày 21/5/2019 để trả nợ cho bà Bé H.
Ngoài ra, hiện nay ông Nguyễn Văn B đang bị bệnh tim không có khả năng trả các khoản nợ thay cho bà Bé H.
Nay ông Nguyễn Văn B không đồng ý liên đới với bà Đỗ Thị Bé H trả cho bà Đỗ Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng).
Với tư cách là người đại diện hợp pháp của bà Bé H thì ông B xác định bà Bé H đồng ý trả cho bà Đỗ Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng). Tuy nhiên, khi bà Bé H chấp hành án xong, trở về gia đình, minh mẫn và đi làm sẽ trả dần cho bà Cẩm E số tiền nêu trên.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:
- Bản án số 13/2019/HS-ST ngày 21/5/2019 (Bản sao y).
- Kết luận giám định pháp y tâm thần số 207/2018/KLGĐTC ngày 25/10/2018 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ; Công văn số 207.0/2018/PYTT ngày 25/10/2018 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ (Bản sao y).
- Biên bản làm việc ngày 05/4/2018 (Bản sao y).
- Biên bản ghi lời khai của bà Đỗ Thị Bé H ngày 03/4/2018, Biên bản ghi lời khai của bà Đỗ Thị Bé H ngày 04/4/2018, Biên bản ghi lời khai của bà Đỗ Thị Bé H ngày 12/5/2018, Biên bản ghi lời khai của bà Đỗ Thị Bé H ngày 31/5/2018 (Bản sao y).
- Đơn xin miễn giảm tiền tạm ứng án phí và án phí (Bản chính).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Theo yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Cẩm E và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là “V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị Bé H cùng cư trú tại ấp N, xã AP, huyện TB, tỉnh ĐT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu bà Đỗ Cẩm E về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị Bé H liên đới trả cho bà Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng).
Xét thấy, Theo Kết luận giám định pháp y về tâm thần số 207/2018/KLGĐTC ngày 25/10/2018 xác định tình trạng bệnh lý của bà Bé H như sau: Về y học: Trước, trong khi phạm tội thì đương sự không có bệnh lý tâm thần và sau khi phạm tội, hiện tại đương sự có bệnh lý tâm thần là rối loạn phân ly (F44.8-ICD10); Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội đương sự có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, hiện tại đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần. Như vậy, tại thời điểm tham gia hụi và thực hiện các giao dịch về hụi thì bà Cẩm E và bà Bé H đều có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự theo quy định. Do đó, khi tham gia hụi và thực hiện các giao dịch về hụi thì bà Cẩm E và bà Bé H đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật. Việc bà Cẩm E và bà Bé H tham gia hụi và thực hiện các giao địch về hụi được thực hiện trên cở sở tự nguyện của các bên, phù hợp theo quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội nên tham gia hụi và thực hiện các giao địch về hụi có giá trị về mặt pháp lý.
Trong quá trình tham gia hụi và thực hiện các giao dịch về hụi thì sau khi đối chiếu bà Bé H còn nợ bà Cẩm E số tiền 22.400.000 đồng. Sau khi tuyên bố vỡ hụi, bà Bé H bị khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2019/HS-ST ngày 21/5/2019 xác định bà Bé H chiếm đoạt của bà Cẩm E số tiền 5.600.000 đồng, còn lại số tiền nợ hụi dân sự là 16.800.000 đồng. Ngoài ra, tại Biên bản làm việc ngày 05/4/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Thanh Bình thể hiện bà Bé H xác định bà Cẩm E trình bày về tiền nợ hụi nêu trên là đúng.
Tại Kết luận giám định pháp y về tâm thần số 207/2018/KLGĐTC ngày 25/10/2018 xác định hiện tại đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần. Do đó, ông Nguyễn Văn B (chồng bà Bé H) là người đại diện hợp pháp cho bà Bé H tham gia giải quyết tranh chấp tại Tòa án là phù hợp theo quy định.
Việc tham gia hụi và tiến hành các giao dịch về hụi được bà Bé H thực hiện trong thời kỳ hôn nhân giữa ông B và bà Bé H, nên khoản nợ nêu trên là tài sản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Mặt khác, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2019/HS-ST ngày 21/5/2019 thể hiện ông B đồng ý sử dụng tài sản của gia đình thực hiện nghĩa vụ trả cho các hụi viên. Do đó, bà Cẩm E yêu cầu ông B và bà Bé H liên đới trả khoản nợ hụi nêu trên là phù hợp.
Từ những phân tích trên, bà Đỗ Cẩm E yêu cầu ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị Bé H liên đới trả cho bà Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng) là có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Xét ý kiến của ông Nguyễn Văn B, ông B không đồng ý liên đới với bà Đỗ Thị Bé H trả cho bà Đỗ Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng).
Với tư cách là người đại diện hợp pháp của bà Bé H thì ông B xác định bà Bé H đồng ý trả cho bà Đỗ Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng). Tuy nhiên, khi bà Bé H chấp hành án xong, trở về gia đình, minh mẫn và đi làm sẽ trả dần cho bà Cẩm E số tiền nêu trên.
Xét thấy, như phần phân tích nêu trên, ý kiến của ông B là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Cẩm E nên ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị Bé H phải liên đới chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357, khoản 2 Điều 468 và Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Cẩm E.
Buộc ông Nguyễn Văn B và Đỗ Thị Bé H liên đới trả cho bà Đỗ Cẩm E số tiền nợ hụi là 16.800.000 đồng (Mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí:
Ông Nguyễn Văn B và Đỗ Thị Bé H liên đới phải chịu số tiền 840.000 đồng (Tám trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 31/2019/DS-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự hụi
Số hiệu: | 31/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về