TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 31/2018/HSST NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:
LÊ HÀO P sinh ngày 27 tháng 01 năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký thường trú: 220/10 Đường L, phường T, quận B, TP.Hồ Chí Minh. Nơi ở: 888/20/19 Đường L, phường T, quận B, TP.Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình C, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1973; Ngày 20/8/2014 bị Tòa án nhân dân quận M, TP.Hồ Chí Minh xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, mức án 03 năm 03 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/11/2016; nhân thân: hiện đang là học viên tại Cơ sở cai nghiện ma túy A theo quyết định số 114/QĐ-TA ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân quận B, TP.Hồ Chí Minh; bị bắt ngày 21/4/2017, được trả tự do ngày 22/4/2017 theo Quyết định số 18/QĐ của Công an quận Tân Bình, tạm giam ngày 01/12/2017 (có mặt)
- Bị hại: Chị Ngô Khánh Tr, sinh năm 1999 (vắng mặt)
Nơi đăng ký thường trú: khu phố 7, Thị Trấn TN, huyện HT, tỉnh Bình Thuận
Nơi ở: 502 đường D, phường S, quận G, TP.Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 19 giờ 30 ngày 21/4/2017 Lê Hào P ngồi uống cà phê ở vỉa hè đường Đ, phường T, quận B thì có gặp người bạn tên Y (không rõ lai lịch), P hỏi mượn Y 01 xe máy kiểu Wave (không rõ biển số) để mua thức ăn. P điều khiển xe máy một mình lưu thông trên đường L (hướng về ngã tư BH) thì phía trước có xe gắn máy do anh Nguyễn Quang Th, Bình Thuận điều khiển, phía sau chở chị Ngô Khánh Tr, sinh năm 1999, nơi đăng ký thường trú khu phố 7, Thị Trấn TN, huyện HT, tỉnh Bình Thuận. Chị Tr có cầm điện thoại di động trên tay sử dụng, P nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản nên khi chạy xe đến trước nhà số 1266 Đường L, phường T, quận B thì P điều khiển xe áp sát bên phải xe của anh Th đồng thời dung tay trái giật điện thoại di động trên tay của chị Tr nhưng do chị Tr cầm chặt nên điện thoại rơi xuống đường, P tăng ga xe bỏ chạy nhưng bị vướng vào xe của anh Th làm cả hai té ngã xuống đường. P bỏ xe chạy bộ qua bên đướng phía đối diện và chạy về hướng đường L, Â. Anh Th chạy bộ đuổi theo đến nhà số 1045 đường L, phường M1, quận B thì bị bắt giữ giao công an phường xử lý. Đối với chiếc xe máy P mượn của Y và dùng làm phương tiện đi cướp giật tài sản thì bị một đối tượng lạ mặt (không rõ lai lịch) dựng lên điều khiển bỏ đi khi mọi người đuổi theo bắt P.
Vật chứng vụ án:
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S 65GB, kết quả định giá trong tố tụng hình sự là 4.200.000 đồng (đã trả lại chi bị hại)
Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 13 tháng 03 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Lê Hào P về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội và khai giống lời khai tại cơ quan điều tra.
Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Hào P về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, đồng thời đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 4 (bốn) đến 5 (năm) năm tù, về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì, về vật chứng: đã xử lý.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lê Hào P, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ quá trình điều tra, truy tố, diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án thì bị cáo mượn xe của đối tượng tên Y (không rõ lai lịch) để mua thức ăn. Bị cáo điều khiển xe máy một mình lưu thông trên đường, lợi dụng sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản đã có hành vi điều khiển xe máy áp sát bên phải xe của anh Nguyễn Quang Th đồng thời dùng tay trái giật điện thoại di động hiệu Oppo F1S 65GB của chị Ngô Khánh Tr trị giá 4.200.000 đồng vào khoảng 19 giờ30 ngày 21/4/2017 tại trước nhà số 1266 Đường L, phường T, quận B, nhưng do chị Tr cầm chặt nên điện thoại rơi xuống đường, bị cáo tăng ga xe bỏ chạy nhưng bị vướng vào xe của anh Th làm cả hai té ngã xuống đường. Bị cáo bỏ xe chạy bộ qua bên đướng phía đối diện và chạy về hướng đường L, Â. Anh Th chạy bộ đuổi theo đến nhà số 1045 đường L, phường M1, quận B thì bị bắt giữ giao công an phường xử lý.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật và Nhà nước bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội do lỗi cố ý nên Hội đồng xét xử xét thấy đã đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Lê Hào P đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Bị cáo Lê Hào P sử dụng xe gắn máy làm phương tiện cướp giật tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn giao thông, nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của chính bị cáo và những người đang lưu thông trên đường là thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Ngày 20/8/2014 Tòa án nhân dân quận 10 xử phạt bị cáo 3 năm 3 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích nhưng bị báo lại phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý là tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm điểm g, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về vật chứng:
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S 65GB, Cơ quan cảnh sát điều tra – công an quận Tân Bình đã trả lại cho bị hại là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội;
- Căn cứ vào Điều 33; điểm g, p Khoản 1 Điều 46; điểm c, d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;
- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án được sửa đổi, bổ sung năm 2014;
1. Tuyên bố bị cáo Lê Hào P phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt: LÊ HÀO P 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 01/12/2017 và được trừ đi thời gian tạm giữ là 01 (một) ngày.
2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại điều 26 Luật Thi hành án được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án 31/2018/HSST ngày 24/04/2018 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 31/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về