TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 31/2018/HSPT NGÀY 22/02/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 22/02/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/HSPT ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Lê Trường G., do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 312/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Lê Trường G. - Sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: SN L.T.T, phường Đ.V, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Việt C và mẹ Hoàng Thị L; vợ: Mai Thị H.T, có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không. Hiện đang tạm giam trong vụ án khác, tại trại giam công an tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: A Lê Thanh Đ.- SN 1993 Địa chỉ: SN ...L.L, phường Đ.S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11h ngày 17/6/2018, Lê Trường G. điện thoại cho Lê Thanh Đ. để đòi tiền nợ. Trong khi nói chuyện qua điện thoại giữa G. và Đ. đã xảy ra mâu thuẫn, lời qua tiếng lại, thách thức nhau. G. gọi điện cho em trai là Lê Việt T.S, G. nói “ Em đang ở đâu, tý nữa đi việc với A”. S hiểu G. muốn gọi S đi đòi nợ vì đã nhiều lần G. gọi S cùng đi thu tiền thăm. Sau khi nghe điện thoại của G., S đến nhà Đỗ Văn M rủ M cùng đi, M đồng ý, S điều khiển xe mô tô chở M đến nhà Hoàng Ngọc Đ. A rủ thêm Đ. A đi cùng vì đã nhiều lần S rủ đi thu tiền thăm nên khi nghe S nói M và Đ. A hiểu ý là đi đòi nợ với S. Sau đó, S chở Đ. A và M quay về đến cây xăng L.T, phường Đ.S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, S xuống đi bộ về cửa hàng, còn M và Đ. A đi đến nhà Nguyễn Xuân H, Đ. A nói với H là S rủ đi có việc, H hiểu là đi thu thăm cùng S nên đồng ý. Sau đó, Đ. A, H và M đi xe máy đến quán Internet “ Bạn Thương” ở 262 L.L, phường Đ.S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Khoảng 12h cùng ngày G. điều khiển xe mô tô Yamaha, loại xe Exciter ( đã làm thủ tục đăng ký BKS 36B6- 525.38) nhưng chưa gắn BKS ( xe của G.) từ nhà đến quán thịt của gia đình S. Trước khi đi, G. dắt vào cạp quần trước bụng 01 con lê dài khoảng 25cm, bên ngoài có vỏ gằng gỗ màu nâu vàng. Đến nơi, G. vẫy tay, S đi ra hỏi “ đi đâu vậy A”, G. nói “ đến nhà thằng Đ. đòi nợ”, S nói “ có cần gọi thêm mấy thằng bạn em không? Nó đang đứng bên kia”, G. nói “ từ từ, chưa cần, lên xe đi”. Sau khi lên xe, S vẫy tay ra hiệu cho nhóm Đ. A đi cùng. Đến nhà Đ. tại ...L.L, phường Đ.S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, G. dừng xe ở lòng đường rồi đi bộ vào, còn S đứng ngoài; lúc này Đ. đang đứng ở trước nhà, G. vào hỏi “ ý em là sao”, Đ. chưa kịp nói gì, G. rút từ trong người ra con lê, tay phải cầm vỏ, tay trái cầm lê đâm hai phát: 01 phát trúng vào bắp tay phải, 01 phát trúng vào hông bên phải Đ., Đ. hò la rồi chạy ra đường, ngay lúc này M, Đ. A và Hiếu đi xe máy đến thấy hai bên đang đánh nhau nên quay đều xe bỏ đi. Thấy Đ. bị G. đâm gây thương tích, Lê Hồng Q ( là A họ Đ.) và Lê Thanh Ch ( là em trai Đ.), mỗi người cầm 02 con dao năm lùa đuổi đánh nhau với S và G., S chạy vào trong quán bán đá lạnh lấy 01 con dao chặt đá rồi xông vào đánh nhau với Q; lúc này được mọi người can ngăn nên G., S, Q và Ch mới dừng lại và không ai việc gì. Sau đó, G. điều khiển xe mô tô đưa S về nhà, trên đường đi G. đã vứt con lê xuống đường nhưng không nhớ rõ địa điểm nào nên không thu giữ được, còn A Đ. sau khi bị G. gây thương tích, được mọi người đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa cấp cứu và điều trị từ ngày 17/6/2018, đến ngày 04/7/2018 xuất viện, A Đ. có đơn xin đi giám định thương tích và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Tại bản giám định pháp y về thương tích số 424/2018 ngày 30/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: Lê Thanh Đ. bị tổn hại 42% sức khỏe.
Theo báo cáo của A Lê Thanh Đ., sau khi bị Lê Trường G. dùng lê đâm vào vùng hông phải gây vết thương thấu thận vùng cực dưới thận phải, A Đ. phải đi điều trị ở bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa thời gian 18 ngày ( từ ngày 17/6/2018 đến ngày 04/7/2018). Trong thời gian điều trị, Anh Đ. đã phải chi phí, thiệt hại và yêu cầu bồi thường những khoản sau:
- Tiền thuê xe taxi ra vào viện và đi giám định: 2.500.000đ.
- Tiền viện phí và thuốc điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa là: 16.309.308đ.
- Chi phí thuốc điều trị sau khi phẫu thuật và khám lại: 45.733.522đ.
- Tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị của bệnh nhân: 40.000.000đ.
- Tiền công người chăm sóc: 15.000.000đ.
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe sau mổ: 5.000.000đ.
- Tiền bồi dưỡng ca mổ: 6.000.000đ.
- Tiền mua thuốc bổ thận: 2.690.000đ.
- Tiền mua 02 lít máu: 5.800.000đ.
Tổng số tiền anh Lê Thanh Đ. yêu cầu Lê Trường G. phải có trách nhiệm bồi thường là 140.000.000đ. Sau khi xảy ra sự việc, G. và gia đình đã bồi thường cho A Đ. số tiền 30.000.000đ. A Đ. đã nhận số tiền trên và yêu cầu Lê Trường G. tiếp tục bồi thường số tiền còn lại 110.000.000đ.
Trong vụ án này, đối với Lê Việt T.S, Đỗ Văn M, Nguyễn Xuân Hiếu và Hoàng Ngọc Đ. A là những người đi theo cùng G. nhưng việc G. gây thương tích cho A Đ. thì S, M, H và Đ. A không được bàn bạc, cũng không có hành vi gây thương tích cho A Đ. nên không có đủ căn cứ để xử lý.
Còn đối với Lê Hồng Q, Lê Thanh Ch, Lê Việt T.S có hành vi lùa đuổi đánh nhau nhưng không gây hậu quả gì nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định xử phạt hành chính theo quy định.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter ( đã làm thủ tục đăng ký BKS 36B6- 525.38) nhưng chưa gắn BKS chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa để xử lý.
* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 312/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa đã quyết định:
Căn cứ vào: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự; Khoản 1, 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 585, Điều 590 Bộ luật dân sự. Điểm a,c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Trường G. phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Trường G.: 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho Anh Lê Thanh Đ. các khoản chi phí, Tổng cộng: 133.333.522đ. Bị cáo đã bồi thường được 30.000.000đ, số tiền còn lại bị cáo phải bồi thường tiếp cho Anh Đ. là 103.333.522đ.
- Án sơ thẩm còn quyết định tang vật, nghĩa vụ thi hành án trong vụ án, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của bị cáo và bị hại.
* Ngày 06/12/2018 bị cáo Lê Trường G. kháng cáo nội dung cấp sơ thẩm xử nặng nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt.
* Tại phiên tòa:
- Bị cáo giữ nguyên kháng cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát Thanh Hóa tham gia phiên tòa đề nghị: Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt cấp sơ thẩm đã xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới đã tự nguyện bồi thường 170.000.000đ cho người bị hại và người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt, nên đề nghị: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo từ 6 tháng đến 12 tháng tù so với cấp sơ thẩm đã xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, tại phiên tòa bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo nên được chấp nhận để xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Xét nội dung kháng cáo:
Xuất phát từ việc nợ tiền nên khoảng 12h ngày 17/6/2018 tại trước số nhà ...L.L, phường Đ.S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Lê Trường G. đã có hành vi dùng dao lê gây thương tích cho Anh Lê Thanh Đ. bị tổn hại 42% sức khỏe. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Trường G. 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của công dân, đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải được xử lý nghiêm, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới là sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho người bị hại 170.000.000đ cao hơn so với quyết định của cấp sơ thẩm (103.333.522đ). Ngoài ra trong vụ án này, nguyên nhân xuất phát từ việc gia đình bị hại (A Đ.) nợ tiền gia đình bị cáo, dẫn đến giữa bị cáo và anh Đ. có lời qua tiếng lại qua điện thoại với nhau nên bị hại có một phần lỗi, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đây là là những tình tiết giảm nhẹ mới ở cấp phúc thẩm và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở cấp sơ thẩm đã đánh giá áp dụng, được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ điểm b,s khoản 1,2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo từ bỏ con đường phạm tội, sớm trở về hòa nhập với cộng đồng.
[4]. Về trách nhiệm dân sự: Mặc dù bị cáo, người bị hại không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nhưng tại giai đoạn phúc thẩm gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại tổng số 170.000.000đ, người bị hại đã viết giấy nhận tiền và cam kết không kiện cáo gì. Đây là sự tự nguyện giữa hai bên nên được chấp nhận và công nhận bị cáo đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự cho người bị hại.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
[6]. Án phí phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm vì kháng cáo được chấp nhận cải sửa án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trường G., sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 312/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa về phần hình phạt.
* Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự; Điểm h khoản 2 Điều 23 nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.
- Xử phạt bị cáo Lê Trường G.: 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho người bị hại Lê Thanh Đ. số tiền 170.000.000đ.
* Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
* Án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Trường G. không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 31/2018/HSPT ngày 22/02/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 31/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về