TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 15/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý 30/2018/TLST-HNGĐ ngày 04/4/2018 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/7/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2018/QĐST-HNGĐ ngày 17/7/2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1980; địa chỉ cư trú: thôn T, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Hồ T, sinh năm 1992; địa chỉ cư trú: thôn T, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 29/3/2018, lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cũng như ý kiến trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Y như sau:
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Hồ T tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 1999 tại UBND xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (trích lục kết hôn số 114/TLKH-BS ngày 23/3/2018, đăng ký kết hôn số 16 ngày 26/4/1999).
Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại thôn Thạch Nham Tây, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Thời gian đầu, vợ chồng bà sống đã không hạnh phúc nhưng bà vẫn cố gắng chịu đựng nhiều năm nay. Đến ngày 21/3/2018, mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng hơn nguyên nhân là ông T nhiều lần uống rượu bê tha, đánh đập vợ thương tích. Mới đây, bà đã ly thân ra sống riêng. Nay bà xác định không còn yêu thương ông T nữa nên xin Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Hồ T.
2. Về quan hệ con chung: Vợ chồng bà có 02 con chung là Hồ Minh H, sinh ngày 21/11/1999 và Hồ Minh T, sinh ngày 09/4/2002. Cháu Hồ Minh H đã đủ 18 tuổi nên bà không yêu cầu gì, riêng cháu Hồ Minh T còn nhỏ nê khi nộp đơn ly hôn bà xin được nuôi dưỡng, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Nhưng từ khi bà ly thân đến nay, ba cha con ông T vẫn sống với nhau, bà không thể dẫn con đến Tòa án để trình bày ý kiến, nguyện vọng nên tại phiên tòa bà yêu cầu giao con Hồ Minh T cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, bà không cấp dưỡng nuôi con chung cho ông T vì bà ra đi với hai bàn tay trắng, để lại nhà cửa, tài sản cho bà cha con quản lý, sử dụng.
3. Về quan hệ tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về quan hệ nợ chung: Không có.
Bị đơn là ông Hồ T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ nhất, lần thứ hai nhưng đều vắng mặt và không có bản tự khai nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định pháp luật.
Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã chấp hành đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, ý kiến của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang đề nghị Tòa án căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Y, cho bà Y được ly hôn với ông T. Về con chung: Con Hồ Minh H đã đủ 18 tuổi nên không đề cập đến. Giao con Hồ Minh T, sinh ngày 09/4/2002 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, bà Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Tài liệu, chứng cứ của vụ án: Đơn xin xác nhận; Đơn khởi kiện, bản sao: trích lục kết hôn, trích lục khai sinh con, bản sao CMND bà Y, bản tự khai của bà Y, biên bản xác minh mâu thuẫn vợ chồng.
Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết các bên đã thống nhất: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án có đủ cơ sở nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Y và ông Hồ T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 208, 209, 210, 211 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt, do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, không ai xuất trình thêm chứng cứ, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Thủ tục tố tụng đã đảm bảo nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Y và ông Hồ T đăng ký kết hôn vào năm 1999 tại UBND xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (trích lục kết hôn số 114/TLKH-BS ngày 23/3/2018, đăng ký kết hôn số 16 ngày 26/4/1999) là đúng quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên có giá trị pháp lý. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, ông T nhiều lần có hành vi bạo đánh đập bà Y, được Ban dân chính thôn và công an xã hòa giải nhưng không được, bà Y đã ly thân ra sống riêng, đời sống hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng không thể níu kéo được nữa nên Tòa án căn cứ Điều 51, khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Y đối với ông T.
[3] Về quan hệ con chung: Có 02 con chung là Hồ Minh H, sinh ngày 21/11/1999 và Hồ Minh T, sinh ngày 09/4/2002. Riêng cháu Hồ Minh H đã đủ 18 tuổi nên bà Y không có yêu cầu gì. Ông T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không có ý kiến gì trong khi đó bà Y đồng ý để ông T nuôi con Hồ Minh T và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Tòa án không thể tiến hành lấy ý kiến của cháu Thi về việc đồng ý sống chung với ai, hơn nữa cháu Thi đang sống ổn định cùng ông T nên không nhất thiết làm xáo trộn cuộc sống, học tập của cháu. Do đó, căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà Y mà, giao con Hồ Minh T, sinh ngày 09/4/2002 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, bà Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ông T.
[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về nợ chung: Không có.
[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Y phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 6353 ngày 04/4/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Y và ông Hồ T.
2. Về nuôi con chung: có 02 con chung là Hồ Minh H, sinh ngày 21/11/1999 và Hồ Minh T, sinh ngày 09/4/2002. Riêng cháu Hồ Minh H đã đủ 18 tuổi nên không đề cập đến. Giao con Hồ Minh T, sinh ngày 09/4/2002 cho ông Hồ T trực tiếp nuôi dưỡng, bà Nguyễn Thị Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ông T. Bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con, các bên có quyền làm đơn xin thay đổi nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung: Không có.
5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 6353 ngày 04/4/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
6. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
7. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 15/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 31/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/08/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về