TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 31/2017/HS-ST NGÀY 12/02/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2017/ HS-ST ngày 02 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2017 đối với:
Bị cáo: Trần Văn N, sinh năm 1974 tại Nam Định; nơi cư trú: 12/23 đường t, phường N, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam con ông Trần Văn C ( đã chết ) và bà Nguyễn Thị Y( đã chết ); có vợ là Nguyễn Thị T sinh năm 1982 và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 149/2002/HSST ngày 25/9/2002 của Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 20 năm tù về tội giết người được đặc xá ngày 23/8/2013; nhân thân: Bản án số 201/HSST ngày 20/9/1995 của Toà án nhân dân tỉnh Nam Hà xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giam ngày 15/6/2017 đến nay. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19h ngày 14/6/2017, Trần Văn N nhận được điện thoại của một phụ nữ quen biết tên là Hà ( Trần Văn N không rõ họ tên, địa chỉ ) nhờ Trần Văn N ra ngã đường Phạm Ngũ Lão thành phố Nam Định gặp một phụ nữ tên Anh ( Trần Văn N không rõ họ tên, địa chỉ ) để nhận một gói hàng là Heroin mang về đê Quán Chuột đưa cho Hà và Hà hứa trả công 400.000 đồng. Trần Văn N đồng ý và đi gặp người phụ nữ tên Anh lấy được một vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có chứa 03 gói nilon đựng chất bột màu trắng mang ra đê Quán Chuột, xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc cho Hà. Khi Trần Văn N đang đứng đợi Hà thì bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định phát hiện và bắt quả tang.
Bản kết luận giám định số 511/GĐKTHS ngày 15/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận 03 gói nilon đựng chất bột màu trắng thu giữ được của Trần Văn N là Heroin có tổng trọng lượng là 6,836 gam.
Cơ quan điều tra thu giữ của Trần Văn N 5.000.000 đồng, 02 điện thoại di động và 01 xe máy Sirius biển kiểm soát 18C1-088.39. Các vật chứng gồm 02 điện thoại di động và 01 xe máy Sirius đã được Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra và xử lý sau.
Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Cáo trạng số 28/CTr-KSĐT ngày 01 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc truy tố Trần Văn N về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” theo điểm h, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố Trần Văn N phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” .
Áp dụng điểm h, p khoản 2 Điều 194 ; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt Trần Văn N từ 09 đến 10 năm tù tính từ ngày 15/6/2017. Phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đến 7.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.
Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu huỷ số heroin thu được sau khi giám định. Trả lại cho bị cáo 5.000.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội .
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của người làm chứng; bản kết luận giám định... Như vậy đã đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 14/6/2017, Trần Văn N có hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý với tổng trọng lượng 6,836 gam; bị cáo là người đã bị kết án về tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng vì vậy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cho nên nên bị cáo đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” theo điểm h, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.
[3] Hội đồng xét xử đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau: Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[4] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại tới chế độ quản lý đặc biệt đối với chất ma tuý của nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo biết hành vận chuyển trái phép chất ma tuý là hành vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Để có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đồng thời áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số Heroin thu được sau khi giám định. Số tiền 5.000.000 đồng là của bị cáo không sử dụng vào việc thực hiện tội phạm nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm h, p khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 41 Bộ luật hình sự 1999; Điều 76, Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.
2. Xử phạt Trần Văn N 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 6 năm 2017. Phạt tiền Trần Văn N 5.000.000 (Năm triệu) đồng sung quỹ nhà nước.
3. Vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số Heroin đựng trong phong bì thư có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc. Trả lại cho Trần Văn N 5.000.000 (Năm triệu) đồng nhưng được tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
4. Án phí: Áp dụng: Trần Văn N phải nộp 200.000 đồng.
Trong hạn 15 ngày: bị cáo Trần Văn N có quyền kháng cáo kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 31/2017/HS-ST ngày 12/02/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 31/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/02/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về