Bản án 31/2017/DSST ngày 13/09/2017 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 31/2017/DSST NGÀY 13/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 13 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2017/TLST-DS ngày 24 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp “hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2017/QĐST- DS ngày 28 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

Đồng nguyên đơn: Ông Nguyễn Đồng L, sinh năm 1980; Bà Phan Thị T, sinh năm 1979;

Cùng địa chỉ: ấp Huê II B, xã Vĩnh Thanh, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.

Đồng bị đơn: Bà Võ Thị C, sinh năm 1985;

Ông Trần Văn H, sinh năm: 1981;

Cùng địa chỉ: ấp Huê II B, xã Vĩnh Thanh, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. (Ông L, bà C có mặt tại phiên tòa; còn lại có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 19 tháng 7 năm 2014 và quá trình làm việc tại Tòa án, đồng nguyên đơn ông Nguyễn Đồng L, bà Phan Thị T trình bày: Ông L, bà T bắt đầu bán thức ăn gia súc cho ông H và bà C từ năm 2011, trong qúa trình bán thức ăn gia súc thì ông H, bà C có mua tiền mặt 1 phần và nợ gối vụ 1 phần, tổng số tiền mà ông H, bà C còn nợ ông L, bà T tính đến thời điểm khởi kiện là 93.010.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi ông L khởi kiện tại Tòa án thì ông H, bà C có trả cho ông L, bà T được số tiền 10.000.000 đồng. Vì vậy, ông L, bà T có đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với 10.000.000 đồng, hiện nay ông H, bà C còn nợ ông L, bà T số tiền 83.010.000 đồng. Nay ông L, bà T yêu cầu ông H, C trả số tiền thức ăn gia súc là 83.010.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn ông Trần Văn H và bà Võ Thị C có lời khai ghi ngày 14/8/2017 trình bày: ông H, bà C thừa nhận có mua thức ăn gia súc của ông L, bà T nhiều lần từ năm 2011, trong quá trình mua thì cũng có mua và có trả sau mỗi lần bán heo, do nuôi heo không có lời nên hiện nay ông bà còn nợ ông L, bà T số tiền 83.010.000 đồng. Nay ông, bà đồng ý trả cho ông L, bà T số tiền 83.010.000 đồng.

Đại diện của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long trình bày quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự tham gia phiên tòa là đúng theo quy định của luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, ông L tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 10.000.000 đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông L, bà T đòi ông H, bà C trả số tiền 10.000.000 đồng. Đối với yêu cầu của ông L, bà T đòi ông H và bà C trả tiền mua thức ăn gia súc còn thiếu là 83.010.000 đồng; về phía ông H và bà C cũng thừa nhận còn thiếu ông L, bà T số tiền 83.010.000 đồng và đồng ý trả nợ theo yêu cầu của ông L và bà T. Từ đó, Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông L và bà T. Buộc ông H và bà C có nghĩa vụ trả cho ông L, bà T số tiền 83.010.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự và ý kiến phát biểu đề xuất của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: ông Nguyễn Đồng L và bà Phan Thị T kiện ông Trần Văn H và Võ Thị C về việc dân sự tại Tòa án nhân dân huyện PhướcLong, tỉnh Bạc Liêu và Tòa án nhân dân huyện Phước Long thụ lý, giải quyết là phù hợp với khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Ông H và bà T đều có đơn yêu cầu xin vắng mặt tại phiên tòa nên việc Tòa án xét xử vắng mặt ông H và bà T là phù hợp với khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung vụ án:

[4] Tại đơn khởi kiện ghi ngày 19/7/2017 ông Nguyễn Đồng L và bà Phan Thị T đòi ông Trần Văn H và bà Võ Thị C trả tiền thức ăn gia súc còn thiếu là 93.010.000 đồng; đến ngày 11 tháng 8 năm 2017 ông L và bà T có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đòi ông H, bà C trả số tiền 10.000.000 đồng; với lý do sau khi ông, bà khởi kiện thì đến ngày 27 tháng 7 năm 2017 ông H và bà C có trả số tiền 10.000.000 đồng.

[5] Tại lời khai ngày 14 tháng 8 năm 2017, ông Trần Văn H và bà Võ Thị C xác nhận, khi ông L khởi kiện thì ông H, bà C còn thiếu ông L và bà T tiền mua thức ăn gia súc còn thiếu là 93.010.000 đồng, sau đó đến ngày 27 tháng 7 năm 2017, ông H và bà C có trả cho ông L số tiền 10.000.000 đồng, hiện tại ông H, bà C thừa nhận còn thiếu ông L và bà T số tiền 83.010.000 đồng, nhưng do hiện tại hoàn cảnh ông H, bà C khó khăn nên họ yêu cầu được trả tiền cho ông L và bà T mỗi vụ bán heo bằng số tiền10.000.000 đồng cho đến khi trả hết nợ.

[6] Cả ông L, bà T và ông H, bà C đều xác định, tính đến ngày 24/7/2017, ông H và bà C còn thiếu ông L, bà T tiền thức ăn gia súc là 93.010.000 đồng; đến ngày 27 tháng 7 năm 2017, ông H và bà C có trả cho ông L và bà T số tiền 10.000.000 đồng,ngày 11 tháng 8 năm 2017 ông L và bà T có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đòi ông H, bà C trả số tiền 10.000.000 đồng; Xét thấy, việc ông L và bà T rút một phần yêu cầu khởi kiện như đã nêu ở trên là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 và khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, tuyên bố đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu của ông L, bà T đòi ông H, bà C trả tiền thức ăn gia súc là 10.000.000 đồng.

[7] Còn lại số tiền 83.010.000 đồng, ông H và bà C thừa nhận còn thiếu ông L, bà T; căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, sự thừa nhận này chứngcứ không cần phải chứng minh và họ đồng ý trả cho ông L, bà T số tiền 83.010.000đồng. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 246 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 428 và 438 của Bộ luật dân sự năm 2005, ghi nhận sự thỏa thuận này. Buộc ông H, bà C trả cho ông L, bà T số tiền 83.010.000 đồng.

[8] Đối với ý kiến của ông H, bà C yêu cầu được trả cho ông L, bà T mỗi vụ bánheo số tiền 10.000.000 đồng. Tại phiên tòa ngày hôm nay ông L không đồng ý và ông L không có yêu cầu tính lãi trong giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án. Xét thấy, ý kiến của bà C và ông H sẽ được xem xét trong giai đoạn thi hành án.

Từ những phân tích nêu trên, Xét thấy quan điểm của Kiểm sát viên là có cơ sởchấp nhận.

Về án phí: Buộc bà C và ông H phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng vào Điều 26; 35; 39; khoản 2 Điều 92; điểm c khoản 1 Điều 217; khoản 2 Điều 244; Điều 226; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 246 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng vào các Điều 428 và 438 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

- Áp dụng Pháp lệnh 10/2009/UBTVQH12 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ QuốcHội.

Tuyên xử:

1/ Đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đồng L, bà Phan Thị T đòi bà Võ Thị C, ông Trần Văn H trả tiền thức ăn gia súc số tiền 10.000.000 đ (Mười triệu đồng).

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đồng L, bà Phan Thị T đòi ông Trần Văn H và bà Võ Thị C trả tiền mua thức ăn gia súc còn thiếu là 83.010.000 đ (Tám mươi ba triệu không trăm mười nghìn đồng).

Buộc ông Trần Văn H và bà Võ Thị C có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Đồng L, bà Phan Thị T số tiền 83.010.000 đ (Tám mươi ba triệu không trăm mười nghìn đồng).

3/ Về án phí: Buộc bà Võ Thị C và ông Trần Văn H có nghĩa vụ nộp số tiền án phí 4.150.500 đ (Bốn triệu một trăm năm mươi nghìn năm trăm đồng). Ông L, bà T đã tạm ứng án phí số tiền 2.325.250 đ (Hai triệu ba trăm hai mươi lăm nghìn hai trăm năm chục đồng) theo biên lai số 0009939 ngày 24/7/2017 sẽ được hoàn lại tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Long.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án theo Điều 6, quyền và nghĩa vụ theo các Điều 7, 7a và 7b; tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt, thời hạn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2017/DSST ngày 13/09/2017 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:31/2017/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;