Bản án 311/2021/HS-ST ngày 26/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 311/2021/HS-ST NGÀY 26/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 330/2021/TLST- HS ngày 30 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 325/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần C, sinh năm 1986 tại Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT: Số nhà 90 Tô Vĩnh D, phường Điện B, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Số nhà 27 Mai Hắc Đ, khu đô thị Bình M, phường Đông H, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Quang T và bà Nguyễn Thị Xuân K; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

- Ngày 25/5/2016, bị Công an phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/7/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 01/7/2021, tại khu vực cổng bến xe phía Tây thuộc địa phận phường Tân S, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa đã kiểm tra, phát hiện và thu giữ của Trần C 01 gói nilong màu trắng, viền đỏ kích thước (0,5x1) cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. C khai nhận là ma túy, cất giấu trong người mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 2172/PC09 ngày 06/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng là 0,382g loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, C khai nhận: khoảng 09 giờ ngày 01/7/2021, Cường bắt taxi đi đến nhà Nguyễn Mạnh Hoàng, sinh năm 1980 ở 06 Trịnh Thị Ngọc T, phường Đông V, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, C đứng ngoài cổng hỏi mua 01 gói ma túy đá của một nam thanh niên trong nhà với giá 300.000đồng. Sau khi mua ma túy, Cường gọi taxi đi đến khu vực Bến xe phía Tây rồi xuống xe đang tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Cường: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã tiến hành điều tra, xác minh, kết quả: người thanh niên ở nhà H ngày 01/7/2021 là Lê Đỗ L, sinh năm 1990 trú tại 21/62 đường Đình H, phường Đông C, thành phố Thanh Hóa. Tại Cơ quan điều tra, tiến hành đối chất thì L và H đều khai nhận không bán ma túy cho C. Ngoài lời khai của C thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh việc L, H bán ma túy cho C nên không có đủ căn cứ để xử lý đối với L và H.

Bản cáo trạng số 219/CTr-VKS ngày 28/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Trần Cường về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo Trần C khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 01/7/2021, bị cáo bắt taxi đi đến nhà Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1980 ở 06 Trịnh Thị Ngọc T, phường Đông V, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, C đứng ngoài cổng hỏi mua được 01 gói ma túy đá của một nam thanh niên trong nhà với giá 300.000đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua ma túy, C gọi taxi đi đến khu vực Bến xe phía Tây, phường Tân Sơn, thành phố Thanh Hóa rồi xuống xe đang tìm nơi sử dụng thì bị Tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện, bắt quả tang và thu giữ một gói ma túy, qua giám định có tổng khối lượng là 0,382 gam, loại Methamphetamine.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản sự việc lập ngày 01/7/2021 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng các loại ma túy là chất gây nghiện được nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi phạm tội liên quan đến ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt khác hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác vì vậy cần phải được xử lý nghiêm.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhân tân bị cáo ngày 25/5/2016, từng bị Công an phường Lam S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bố bị cáo là người có công với nhà nước, được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen, Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng ba. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành vì vậy cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy này.

Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Trần C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Trần C 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam là ngày 08/7/2021.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 217/THA ngày 03/8/2021 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 311/2021/HS-ST ngày 26/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:311/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;