TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 310/2017/HS-ST NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 320/2017/TLST- HS ngày 24 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 333/2017/HSST-QĐ ngày 17 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Trần Ngọc B (tên gọi khác: M), sinh năm 1984 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 51/3B, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Trần Văn C, sinh năm 1958 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1958; vợ tên Nguyễn Thị S, sinh năm 1987; có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 13/9/2017, có mặt.
- Người bị hại: Ông Lê Khắc C, sinh năm 1984; thường trú: Số 4/20A, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người làm chứng:
1/ Ông Tô Văn H, sinh năm 1981; thường trú: Số 18/16, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
2/ Ông Trần Ngọc T (tên gọi khác S), sinh năm 1977; thường trú: Số777/1A, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có mặt
3/ Ông Võ Tấn T, sinh năm 1983; thường trú: Số 2/19A, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Ngọc B (tên gọi khác: M) là em trai của anh Trần Ngọc T, anh T quen biết với anh Lê Khắc C thông qua anh Tô Văn H. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 02/9/2017, tại nhà của anh T ở số 777/1A, khu phố Đ, phường T, thị xã D , tỉnh Bình Dương đang tổ chức tiệc sinh nhật cho con gái, lúc này trong bàn tiệc có anh Lê Khắc C, Tô Văn H, Võ Tấn T, Trần Ngọc T và Trần Ngọc B đang ngồi ăn uống. Anh Lê Khắc C nói với anh T sao không gọi anh Trần Minh D là anh em cọc chèo với anh T đến thì anh T nói là anh D mới ở đây về. Anh C dùng điện thoại di động gọi điện cho anh D và nói với anh T 01 tiếng nữa anh D sẽ quay lại. Lúc này, anh T và anh C cược nhau nếu anh D đến thì anh T sẽ trả tiền 01 kèo uống bia khác, khi anh C và anh T đang nói chuyện to tiếng với nhau thì Trần Ngọc B dùng 01 ly bia bằng thủy tinh đập 01 cái vào mặt anh C làm ly thủy tinh vỡ thành nhiều mảnh gây thương tích. Sau đó, B về nhà ngủ còn anh C được mọi người đưa đi cấp cứu.
Theo kết luận giám định số 0715/GĐPY/2017 ngày 07/9/2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đồng Nai kết luận đối với thương tích của anh Lê Khắc C như sau:
1/ Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương chân mũi trái kích thước 3,5x0,2cm và vết thương dưới mắt trái (từ đuôi mày trái đến gò má trái) kích thước 4,5x0,2cm, xấu về thẩm mỹ, tỷ lệ 15%;
- Vết thương trán phải kích thước 03x0,2cm xấu về thẩm mỹ, 02 vết thương gò má trái (thái dương trái và trán trái) kích thước 01x0,1cm và01x0,2cm, tỷ lệ 0,6%.
2/ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám địnhlà 20%.
3/ Vật gây thương tích: Vật sắc. Vật chứng: 01 ly thủy tinh bị vỡ.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đồng Nai trên.
Tại Cáo trạng số 299/QĐ - KSĐT ngày 23 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Ngọc B về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 104; điểmb, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án từ 02năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 ly thủy tinh bị vỡ.
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi như cáo trạng truy tố. Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo xin lỗi người bị hại và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người bị hại và người làm chứng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Chứng cứ xác định có tội: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 02/9/2017, tại nhà của anh Trần Ngọc T ở số 777/1A, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Trần Ngọc B (tên gọi khác: M) dùng 01 ly bia bằng thủy tinh đập01 cái vào mặt anh Lê Khắc C làm ly thủy tinh vỡ thành nhiều mảnh gây thươngtích cho anh C với tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 20% (kết luận giám định số 0715/GĐPY/2017 ngày 07/9/2017 của Trung tâm pháp y Sở ytế tỉnh Đồng Nai – bút lục 18, 19).
Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự:
1.“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiềungười;
..................................
2. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
Như vậy, hành vi của bị cáo sử dụng ly thủy tinh là “hung khí nguy hiểm” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự gây thương tích cho người bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 20% đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 299/QĐ - KSĐT ngày 23 tháng 10 năm 2017 củaViện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi dùng ly thủy tinh đánh vào mặt người khác gây thương tích là vi phạm pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình để bồi thường chi phí điều trị, thẩm mỹ cho người bị hại; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động làm thuê, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, hiện các con còn nhỏ.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại, người bị hại không còn yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Xét mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.
[9] Xử lý vật chứng: Xét 01 ly thủy tinh bị vỡ, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quyđịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòaán.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc B (tên gọi khác: M) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p, khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc B 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2017.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 ly thủy tinh bị vỡ.
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòaán.
Bị cáo Trần Ngọc B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 310/2017/HS-ST ngày 29/11/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 310/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về