TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 309/2022/DS-ST NGÀY 02/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 08 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 214/2021/TLST-DS ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 207/2022/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 184/2022/QĐST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Quỹ trợ vốn Xã viên - Hợp tác xã T Địa chỉ trụ sở: Phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quang C, sinh năm 1977; Địa chỉ: Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Bà Lê Thị Phương A, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Xã H, Huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Minh B, sinh năm 1981; Địa chỉ: Xã H, Huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 09/4/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Tcó người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Quang C trình bày:
Ngày 02/03/2020, Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T– chi nhánh Bình Chánh (gọi tắt là Quỹ trợ vốn CCM) đã ký hợp đồng liên kết số 046/2020/HĐLK-BC với Hội phụ nữ xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh để làm cấp liên nhiệm cho Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T– Chi nhánh Bình Chánh. Bà Bùi Thị Cẩm Vân – là Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã Hưng Long, huyện Bình Chánh ký hợp đồng liên kết với Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T– chi nhánh Bình Chánh. Mục đích là hỗ trợ vốn cho các hộ dân thuộc xã Hưng Long, huyện Bình Chánh để sản xuất – kinh doanh – dịch vụ, mua bán , làm nông nghiệp… theo sự giới thiệu và đề nghị của Cấp liên nhiệm.
Thông qua hợp đồng này, Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T– chi nhánh Bình Chánh đã tiến hành trợ vốn cho 59 thành viên vào ngày 21/7/2020 (có danh sách ký nhận tiền đính kèm), phương thức trợ vốn: góp hàng tháng, thời hạn trợ vốn: 12 tháng, phí trợ vốn CCM: 0,65%/tháng (phí này dùng trang trải chi phí hoạt động nội bộ của quỹ CCM –gọi tắt là phí CCM), phí hoa hồng cho Cấp liên nhiệm: 0,15%/tháng (phí này để Cấp liên nhiệm trang trải các chi phí phục vụ cho quá trình thu hồi vốn phí, tiết kiệm cho Quỹ trợ vốn CCM- gọi tắt là phí CLN), tiết kiệm bắt buộc là: 1%/tháng (khoản tiết kiệm này được hoàn trả cho thành viên xin trợ vốn khi hoàn tất hợp đồng vay vốn và Quỹ trợ vốn CCM không trả lãi tiết kiệm trên số dư tiết kiệm này).
Trong đợt trợ vốn ngày 21/7/2020, bà Lê Thị Phương A đã làm đơn xin trợ vốn và được duyệt trợ vốn số tiền 40.000.000 đồng. Theo kế hoạch thì bà Lê Thị Phương A phải góp mỗi tháng là 4.100.000 đồng trong 11 tháng đầu, tháng cuối góp 3.300.000đ và góp đều cho đến ngày hết hạn hợp đồng là ngày 21/7/2021. Thế nhưng bà Lê Thị Phương A không góp đúng theo kế hoạch ban đầu.
Đến ngày 30/03/2021, bà Lê Thị Phương A vẫn chưa hoàn trả hết số nợ cho Quỹ trợ vốn CCM. Tổng số tiền nợ sau khi trừ đi số tiền tiết kiệm của bà Lê Thị Phương A là 33.400.000 đồng, nợ vốn là 29.800.000 đồng, nợ lãi (phí) 3.600.000 đồng và khoản lãi phát sinh sẽ tính đến thời điểm bà Lê Thị Phương A thanh toán nợ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Lê Minh B có ký tên trả nợ thay trong Đơn đề nghị trợ vốn, ngày 14/7/2020.
Vì vậy, Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Tyêu cầu Tòa án giải quyết.
1/ Buộc bà Lê Thị Phương A có trách nhiệm phải hoàn trả toàn bộ số tiền nợ cho Quỹ trợ vốn CCM – Chi nhánh Bình Chánh, tính đến ngày 30/03/2021 là 33.400.000 đồng (Ba mươi ba triệu bốn nghìn đồng) theo đợt trợ vốn ngày 21/7/2020 trong đó nợ vốn là 29.800.000 (Hai mươi chín triệu tám trăm nghìn) đồng, nợ lãi là 3.600.000 ( Ba triệu sáu trăm nghìn) đồng.
2/ Trong trường hợp bà Lê Thị Phương A không có khả năng trả nợ thì đề nghị ông Lê Minh B có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Lê Thị Phương A khoản nợ nêu trên.
Bị đơn bà Lê Thị Phương A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Minh B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bà Lê Thị Phương A và ông Lê Minh B.
Tại phiên toà:
Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T là ông Nguyễn Quang C có đơn xin đề nghị giải quyết vắng mặt.
Bị đơn bà Lê Thị Phương A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Minh B vắng mặt tham gia phiên toà lần thứ 2 không có lý do.
Bà Nguyễn Thị Thuý Hiền, Kiểm sát viên, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh trình bày: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật.
Về nội dung vụ án: Tất cả các đương sự đều vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử căn có vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, các quy định của pháp luật chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Lê Thị Phương A thanh toán tiền nợ vay theo đơn đề nghị trợ vốn, đây là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn bà Lê Thị Phương A có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T ông Nguyễn Quang C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn bà Lê Thị Phương A, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lê Minh B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về áp dụng pháp luật: Do giao dịch dân sự giữa nguyên đơn và bị đơn được xác lập vào năm 2020. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn làm cơ sở để giải quyết vụ án.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau: [4.1] Tòa án đã triệu tập bà Lê Thị Phương A và ông Lê Minh B đến Tòa án để ghi nhận ý kiến, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản nhưng bà Lê Thị Phương A và ông Lê Minh B không đến Tòa để giải quyết vụ án và cũng không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy, bà A và ông B đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình và phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày, các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm chứng cứ giải quyết vụ án.
[4.2] Về hình thức hợp đồng: Căn cứ Đơn xin trợ vốn ngày 14/7/2020, Tờ trình xét duyệt trợ vốn ngày 21/7/2020 và Danh sách đề nghị trợ vốn của xã viên, người lao động trong THT, HTX ngày 21/7/2020 thì giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp đồng vay tài sản có hình thức phù hợp với quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015. Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Tlà tổ chức có tư cách pháp nhân có đại diện hợp pháp xét duyệt trợ vốn và bà Lê Thị Phương A là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự tự nguyện đề nghị giao kết hợp đồng do đó hợp đồng này có hiệu lực và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng theo quy định tại Điều 401 của Bộ luật dân sự.
[4.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T yêu cầu bà Lê Thị Phương A có trách nhiệm hoàn trả cho Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Ttổng số tiền còn nợ là 33.400.000 đồng (Ba mươi ba triệu bốn nghìn đồng) theo đợt trợ vốn ngày 21/7/2020 trong đó nợ vốn là 29.800.000 (Hai mươi chín triệu tám trăm nghìn) đồng, nợ lãi là 3.600.000 ( Ba triệu sáu trăm nghình) đồng.
Nếu bà Lê Thị Phương A không có khả năng trả nợ thì đề nghị ông Lê Minh B phải trả nợ thay cho bà Lê Thị Phương A khoản nợ nêu trên.
[4.4] Căn cứ Đơn đề nghị trợ vốn ngày 14/7/2020 thể hiện bà Lê Thị Phương A có nhu cầu vay vốn là 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng, thời hạn vay 12 tháng, phí trợ vốn: 0,65%/tháng, phí CLN: 0,15%/tháng, tiết kiệm: 01%/tháng, mục đích đề nghị trợ vốn: buôn bán (sửa chữa).
[4.5] Căn cứ Danh sách nhận trợ vốn kiêm biên bản bàn giao vốn ngày 21/7/2020, đợt trợ vốn ngày 21/7/2020 (số thứ tự 16) có chữ ký của bà Lê Thị Phương A. Hội đồng xét xử có cơ sở xác định bà Lê Thị Phương A có vay tiền của Quỹ trợ vốn xã viên Hợp tác xã T với số tiền gốc là 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng.
[4.6] Tuy nhiên, sau khi nhận vốn từ Quỹ trợ vốn CCM thì bà Lê Thị Phương A có thanh toán cho Quỹ trợ vốn CCM nhưng thanh toán không đầy đủ tiền vốn và tiền lãi cho Quỹ trợ vốn CCM.
Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà Lê Thị Phương A làm đơn đề nghị Quỹ trợ vốn CCM trợ vốn và đồng ý với các thỏa thuận, cam kết trong đơn đề nghị trợ vốn nhưng sau khi nhận vốn thì bà Lê Thị Phương A không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Quỹ trợ vốn CCM là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T, buộc bà Lê Thị Phương A có trách nhiệm thanh toán cho Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T số tiền nợ với tổng số tiền là 33.400.000 đồng (Ba mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng), trong đó nợ vốn là 29.800.000 (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn) đồng, nợ lãi là 3.600.000 (Ba triệu sáu trăm nghìn) đồng.
[4.7] Về yêu cầu buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Minh B phải trả nợ thay cho bà A trong trường hợp bà Lê Thị Phương A không có khả năng trả nợ cho Quỹ trợ vốn CCM. Căn cứ vào Đơn xin trợ vốn ngày 14/7/2020 của bà Lê Thị Phương A có nội dung như sau: “Người có nghĩa vụ trả thay (nếu tôi không trả được) là ông Lê Minh B, số CMND: 023498658, Địa chỉ: B28/16 ấp 2, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, …”. Trong đơn đề nghị trợ vốn có chữ ký xác nhận của ông Lê Minh B tại phần người có nghĩa vụ trả thay.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
[4.8] Căn cứ vào các Điều 335, Điều 336, Điều 339 và Điều 342 của Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định ông Lê Minh B sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ cho bà Lê Thị Phương A nếu khi đến hạn thanh toán mà bà Lê Thị Phương A không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ cho Quỹ trợ vốn CCM. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của Quỹ trợ vốn CCM.
[4.9] Người đại diện hợp pháp nguyên đơn xác định Quỹ trợ vốn CCM không yêu cầu bà Lê Thị Phương A thanh toán lãi chậm trả và lãi trên nợ gốc quá hạn theo quy định tại khoản 5 Điều 466 của Bộ luật dân sự. Xét đây là sự tự nguyện của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5] Từ những lý lẽ đã viện dẫn; Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 6 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Tđược nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 227, Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 335, Điều 336, Điều 339, Điều 342, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T đối với bị đơn bà Lê Thị Phương A về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
1.1. Buộc bà Lê Thị Phương A có trách nhiệm trả cho Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T số tiền nợ 33.400.000 đồng (Ba mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng), trong đó nợ vốn là 29.800.000 (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn) đồng, nợ lãi là 3.600.000 (Ba triệu sáu trăm nghìn) đồng.
Các bên giao nhận tiền tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Ghi nhận sự tự nguyện của Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Tkhông yêu cầu bà Lê Thị Phương A trả lãi chậm trả và lãi trên nợ gốc quá hạn.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã Tcho đến khi thi hành án xong, bà Lê Thị Phương A còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.
1.2. Trong trường hợp bà Lê Thị Phương A không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ nêu trên thì ông Lê Minh B có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Lê Thị Phương A.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
2.1. Bà Lê Thị Phương A phải chịu 1.670.000 (Một triệu sáu trăm bảy chục nghìn) đồng và nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2.2. Hoàn trả lại cho Quỹ trợ vốn Xã viên – Hợp tác xã T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 740.000 (bảy trăm bốn chục nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0040106 ngày 13 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 309/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 309/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về