Bản án 302/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 302/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 21 tháng 11 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 2270/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 359/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Quỳnh L, sinh năm 1982; cư trú tại: Khu Phố H, phường TH, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Trần Thanh P, sinh năm 1971; cư trú tại: Khu Phố H, phường TH, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và đơn xin vắng mặt đề ngày 28/10/2019, nguyên đơn chị Phạm Thị Quỳnh L trình bày:

Chị và anh Trần Thanh P chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường TH, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 03/7/2002. Quá trình chung sống ban đầu hạnh phúc nhưng đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp. Chị và anh P đã cố gắng khắc phục để tiếp tục cuộc sống vợ chồng nhưng không có kết quả. Chị xác định mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án cho chị ly hôn với anh P.

Về con chung: Chị L xác định có hai con chung là Trần Anh T, sinh ngày 24/11/2002 và Trần Quỳnh A, sinh ngày 08/12/2010. Chị L yêu cầu giao hai con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng và chị cấp dưỡng nuôi con chung, mỗi con là 1.000.000 đồng/tháng (một triệu đồng).

Về tài sản chung: Vợ chồng chị tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc nên chị L đề nghị vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 18/10/2019, bị đơn anh Trần Thanh P trình bày: Anh và chị L chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường TH, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 03/7/2002. Quá trình chung sống ban đầu hạnh phúc nhưng đến năm 2017, phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp. Anh xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý vì anh là người theo đạo Thiên Chúa.

Về con chung: Anh P xác định anh chị có có hai con chung là Trần Anh T, sinh ngày 24/11/2002 và Trần Quỳnh A, sinh ngày 08/12/2010. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn anh yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung, mỗi con 1.000.000đồng/tháng (một triệu đồng).

Về tài sản chung: Vợ chồng anh tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc, anh P đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh P, giao con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, xem xét việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Tố tụng:

- Về tư cách tố tụng:

Chị Phạm Thị Quỳnh L khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc ly hôn, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con với anh Trần Thanh P. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định chị L là nguyên đơn, anh P là bị đơn.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Trần Thanh P hiện cư trú tại phường TH, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. C ăn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của chị L thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Về thủ tục tố tụng khác: Chị Phạm Thị Quỳnh L và anh Trần Thanh P có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh P kết hôn năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường TH, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân tự nguyện nên được coi là hôn nhân hợp pháp. Nay chị L xin ly hôn, Tòa án căn cứ Luật hôn nhân gia đình năm 2000Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

Xét thấy: Chị L và anh P đều thừa nhận sau khi kết hôn, thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. Đến năm 2017, hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, tình cảm vợ chồng hiện nay không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Ngoài ra, tại biên bản xác minh ngày 18 tháng 10 năm 2019, Ủy ban nhân dân phường TH xác định vợ chồng chị L, anh P có mâu thuẫn nhưng nguyên nhân mâu thuẫn là gì thì địa phương không nắm rõ. Mặc dù, anh P có lời khai không đồng ý ly hôn với chị L vì lý do anh là người theo đạo Thiên Chúa. Nhưng xét thấy mẫu thuẫn vợ chồng giữa anh, chị là có thật, ngày càng trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Quỳnh L đối với anh Trần Thanh P.

Về con chung: Chị Chị L và anh P đều xác định có hai con chung là cháu Trần Anh T, sinh ngày 24/11/2002 và cháu Trần Quỳnh A, sinh ngày 08/12/2010. Chị L yêu cầu giao hai con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị cấp dưỡng nuôi con chung, mỗi con 1.000.000 đồng/tháng. Anh P có lời khai nếu trường hợp Tòa án cho ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung và yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung, mỗi con 1.000.000 đồng/tháng (một triệu đồng). Do đó cần chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cháu Trần Anh T và cháu Trần Quỳnh A cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị L cấp dưỡng nuôi con chung, mỗi con 1.000.000 đồng/tháng (một triệu đồng).

Về tài sản chung: Chị L và anh P khai vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Chị L và anh P khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Về án phí: Nguyên đơn chị Phạm Thị Quỳnh L phải chịu toàn bộ án phí ly hôn và án phí phần cấp dưỡng nuôi con chung định kỳ hàng tháng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Quỳnh L đối với anh Trần Thanh P.

Cho chị Phạm Thị Quỳnh L được ly hôn với anh Trần Thanh P.

2. Về con chung: Giao hai con chung là cháu Trần Anh T, sinh ngày 24/11/2002 và cháu Trần Quỳnh A, sinh ngày 08/12/2010 cho anh Trần Thanh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị Phạm Thị Quỳnh L có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung, mỗi con 1.000.000đồng/tháng (một triệu đồng) cho đến khi cháu Anh T và cháu Quỳnh Anh đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Chị L không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Khoản 2, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về tài sản chung: Chị L và anh P khai vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị L và anh P khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

5. Về án phí:

- Chị Phạm Thị Quỳnh L phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con định kỳ hàng tháng. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000731 ngày 27/9/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; chị L còn phải nộp thêm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) còn thiếu.

5. Về quyền kháng cáo:

Chị L, anh P được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 302/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:302/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;