TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 30/2024/KDTM-PT NGÀY 01/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LẮP ĐẶT THIẾT BỊ PCCC
Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân TP. Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 23/2024/TLPT-KDTM ngày 08 tháng 01 năm 2024 về “ Tranh chấp Hợp đồng lắp đặt thiết bị PCCC”. Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 44/2023/KDTM-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố hà Nội bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2023/QĐXX-PTKT ngày 17 tháng 01 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2324/QĐHPT-PTKT ngày 25/01/2024, giữa:
Nguyên đơn: Công ty cổ phần thiết bị và công nghệ T Trụ sở: số 34, ngõ 61 Phố K, phường K, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Mai Đức H- Tổng Giám đốc. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng Thị Mỹ L, bà Phan Thị Ngọc Tr (Theo Hợp đồng ủy quyền số 196 ngày 02/6/2023). (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân S, ông Hoàng Văn C – Luật sư thuộc văn phòng luật sư V – Đoàn luật sư Hà Nội. (có mặt)
Bị đơn: Công ty cổ phần tập đoàn H;
Trụ sở: Ô đất CT5 khu đô thị mới T I, xã T, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Anh Hu- Tổng giám đốc. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thu Th- Trưởng phòng pháp chế (theo Giấy ủy quyền số 78/UQ-HOUSINCO ngày 07/8/2023). (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn Công ty cổ phần thiết bị và công nghệ T do bà Phan Thị Ngọc Tr đại diện hợp pháp trình bày:
Ngày 16/8/2019, Công ty cổ phần Thiết bị và công nghệ T (gọi tắt là công ty T) và Công ty cổ phần tập đoàn H (gọi tắt là Công ty H) ký kết Hợp đồng thi công xây dựng số 16-8/2019HĐKT/HOUSINCO-THIENY về việc thi công hệ thống PCCC và tăng áp hút khói dự án Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T tại lô CT5 – khu đô thị mới tây Kim Giang – T – Thanh Trì – Hà Nội theo thiết kế đã được Chủ đầu tư phê duyệt. Theo hợp đồng: Công ty T (nhà thầu) nhận thi công hệ thống PCCC, hệ thống tăng áp hút khói, nghiệm thu Hệ thống PCCC với cơ quan chức năng; Sửa chữa sai sót và hoàn thiện theo đúng bản vẽ thiết kế đã phê duyệt Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T tại lô CT5 – khu đô thị mới Tây Kim Giang – T – Thanh Trì – Hà Nội theo thiết kế đã được Chủ đầu tư phê duyệt. Tổng giá trị theo Hợp đồng là 29.039.728.000 đồng.
Hợp đồng còn quy định về khối lượng công việc, giá trị công việc, quy cách chất lượng thiết bị vật tư lắp đặt; quy định về việc kiểm tra, giám sát vật tư, thiết bị của chủ đầu tư; quy định về nghiệm thu sản phẩm các công trình hoàn thành, nghiệm thu bàn giao hệ thống PCCC, thời gian tiến độ hoàn thành công trình cũng như điều kiện được gia hạn thời gian hoàn thành công việc, cùng trách nhiệm, thời gian, thời hạn thanh toán thiết bị vật tư, khối lượng thực hiện và quyết toán công trình, quy định về phạt và bồi thường khi chậm tiến độ và trách nhiệm thanh toán tiền lãi khi chậm thanh toán cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Đối với phần khối lượng phát sinh đã có đơn giá trong Hợp đồng: hai bên xác nhận khối lượng thi công và thanh toán theo đơn giá đã có trong Phụ lục Hợp đồng; Phần khối lượng phát sinh ngoài Hợp đồng: bên B sẽ trình bên A đơn giá của phần công việc phát sinh, sau khi bên A xác nhận (tiến hành bổ sung làm Phụ lục HĐ) bên B mới có cơ sở triển khai thi công và thanh toán...”.
Sau khi ký hợp đồng và thực hiện hợp đồng giữa hai bên đã ký 7 phụ lục hợp đồng, trong đó phục lục hợp đồng số 04 ngày 27/9/2021, điều chỉnh giá trị gói thầu thi công của hợp đồng do có phát sinh khối lượng thành 36.384.031.000đ; Các phụ lục hợp đồng số 01 ngày 16/8/2019; phụ lục lợp đồng số 02 ngày 31/12/2020; phụ lục hợp đồng 03 ngày 14/7/2021; phụ lục hợp đồng số 05 ngày 30/12/2021 và phụ lục hợp đồng số 07 ngày 28/3/2022 gia hạn thời gian bàn giao công trình. Theo phụ lục hợp đồng 07 ngày 31/5/2022, Công ty T phải bàn giao phần công trình thi công được ký kết tại hợp đồng và các phụ lục hợp đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đã triển khai các công việc theo thỏa thuận tại hợp đồng, đã thực hiện đúng các tiêu chuẩn về kỹ thuật cam kết tại hợp đồng. Tổng giá trị công việc đã hoàn thành của Công ty T có giá trị là 32.079.515.873đ và khối lượng công việc phát sinh giá trị là 277.235.522đ(công ty H đã ký xác nhận).Trong đó giá trị đã xuất hóa đơn VAT là 26.167.461.318 đồng.
Sau khi công ty T hoàn thành các khối lượng công việc, ngày 20/4/2022, Công ty T, Công ty H đã ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục thi công xây dựng số 01/A-B/NTHTGT/HOUSINCO-TY. Tại biên bản hai bên thống nhất nghiệm thu hạng mục công trình với chất lượng công trình đạt yêu cầu, khối lượng xây dựng phù hợp với hồ sơ thiết kế, hợp đồng xây dựng và thực tế thi công của Nhà thầu. Ngày 14/10/2022, Cục cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ- Bộ công an có văn bản số 2171/NT-PCCC & CNCH-P4 về việc chấp thuận kết quả nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy đối với công trình Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T.
Ngày 14/01/2023, Đại diện Ban quản lý tòa nhà H, đại diện chủ đầu tư công ty H, đại diện nhà thầu thi công là Công ty T đã ký biên bản bàn giao hệ thống PCCC.
Như vậy kể từ ngày 14/10/2022 (thời điểm ký nghiệm thu giao giấy phòng cháy chữa cháy) Công ty H phải thanh toán cho Công ty T 90% giá trị hợp đồng (giá trị công việc đã hoàn thành là 26.167.461.318 đồng) nhưng công ty H mới chỉ thanh toán cho Công ty T 22.059.782.820 đồng.
Ngày 02/3/2023, Công ty T đã gửi hồ sơ quyết toán sang công ty H để phê duyệt quyết toán và yêu cầu Công ty H thanh toán số tiền còn lại theo hợp đồng 31.437.925.555đ, ( 2% bảo hành chủ đầu tư sẽ giữ lại) nhưng từ đó đến nay công ty H chỉ thanh toán cho công ty T 22.059.782.820đ, số tiền còn lại 9.378.143.053đ của hợp đồng vẫn không thanh toán mặc dù công ty T đã nhiều lần yêu cầu công ty H thanh toán.
Việc không thanh toán tiền của công ty H đã là vi phạm các điều khoản của Hợp đồng thi công xây dựng được ký kết giữa hai bên. Vì vậy Công ty Thiên Y khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty H phải thanh toán cho Công ty T số tiền còn lại theo Hợp đồng thi công xây dựng ngày 16/8/2019 được ký giữa hai bên là 9.378.143.053đ; Khối lượng công việc phát sinh là 277.235.522đ(công ty H đã ký xác nhận) và lãi của số tiền 1.490.932.366đ (là số tiền chậm thanh toán của 90% giá trị khối lượng công việc hoàn thành được thanh toán trên giá trị hợp đồng) theo lãi suất quá hạn của ngân hàng Seabank từ ngày 14/10/2022 (thời điểm ký nghiệm thu phòng cháy chữa cháy) đến ngày 22/9/2023 là 189.695.614đ. Tổng số tiền công ty H phải thanh toán cho Công ty T là 9.845.074.189đ.
Đối với việc Công ty H cho rằng Công ty T chậm trễ trong quá trình thực hiện công việc, vi phạm tiến độ hoàn thành công việc, bàn giao không đúng thời gian vì vậy phạt vi phạm tiến độ đối với Công ty Thiên ý, Công ty Thiên ý không đồng ý vì việc chậm tiến độ là do chủ đầu tư Công ty H bàn giao mặt bằng thi công, bản vẽ thiết kế (tính pháp lý) cho Công ty T muộn. Mặt khác trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty H có sự thay đổi, sửa chữa bản vẽ thiết kế, cắt một phần công việc của T giao cho nhà thầu khác thực hiện dẫn đến việc T phải phối hợp với công ty H trong việc thiết kế lại bản vẽ, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của các cơ quan chức năng. Các công văn, văn bản Công ty H gửi Công ty T chỉ mang tính nhắc nhở, đôn đốc cho các bộ phận thực hiện công việc trên công trường, công trình chứ thực tế trong quá trình thanh quyết toán giữa hai bên chưa bao giờ Công ty H nêu vấn đề và đưa ra yêu cầu này.
Bị đơn là Công ty cổ phần tập đoàn H do bà Nguyễn Thị Thu Hương là người đại diện hợp pháp của công ty trình bày:
Công ty H xác nhận ngày 16/8/2019, Công ty T và Công ty H có ký kết Hợp đồng thi công xây dựng số 16-8/2019HĐKT/HOUSINCO- THIENY cũng như nội dung hợp đồng, giá trị của hợp đồng và các phụ lục hợp đồng số 01 ngày 07/3/2020, phụ lục hợp đồng số 02 ngày 30/12/2020, phụ lục hợp đồng số 03 ngày 14/7/2021, phụ lục hợp đồng số 04 ngày 27/9/2021, phụ lục hợp đồng số 05 ngày 30/12/2021, phụ lục hợp đồng số 06 ngày 01/3/2022, phụ lục hợp đồng số 07 ngày 28/3/2022 được ký giữa hai công ty như đại diện Công ty T đã trình bày. Cũng xác nhận theo phụ lục hợp đống số 4 điều chỉnh giá trị hợp đồng do có phát sinh khối lượng. Giá trị hợp đồng sau khi điều chỉnh bao gồm cả VAT là 36.384.031.000đ.
Công ty H cũng xác nhận theo hợp đồng, tổng giá trị hợp đồng của Công ty T là 36.384.031.000đ nhưng quá trình thực hiện hợp đồng, một phần công việc của Công ty T đã được Công ty H cắt cho nhà thầu khác nhưng cụ thể giá trị hợp đồng bị cắt đi và phần giá trị hợp đồng còn lại của Công ty T là bao nhiêu do chưa quyết toán toàn công trình nên không xác định được, nhưng Công ty cũng thừa nhận, thực hiện hợp đồng, Công ty T đã xuất hóa đơn cho công việc mình hoàn thành. Giá trị đã xuất hóa đơn ( đã bao gồm VAT)là 26.167.461.318đ. Theo giá trị đã xuất hóa đơn của Công ty T, Công ty H đã thanh toán cho Công ty T 22.059.782.820đ. Giá trị hóa đơn còn lại phải thanh toán là 4.107.678.498đ. Công ty Hosinco xác nhận ngày 20/4/2022, Công ty T và Công ty H đã ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục thi công xây dựng số 01/A- B/NTHTGT/HOUSINCO-TY. Tại biên bản thể hiện hai bên đã thống nhất nghiệm thu hạng mục công trình với chất lượng công trình đạt yêu cầu, khối lượng xây dựng phù hợp với hồ sơ thiết kế, hợp đồng xây dựng và thực tế thi công của nhà thầu. Ngày 14/10/2022 , Cục cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ- Bộ công an có văn bản số 2171/NT-PCCC & CNCH-P4 về việc chấp thuận kết quả nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy đối với công trình Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T. Ngày 14/01/2023, Đại diện Ban quản lý tòa nhà H, đại diện chủ đầu tư công ty H, đại diện nhà thầu thi công là Công ty T đã ký biên bản bàn giao hệ thống PCCC.
Số tiền 4.107.678.498đ còn lại theo hóa đơn đã xuất của Công ty H chưa thanh toán là vì: Theo báo cáo của Ban Quản lý dự án và Đoàn Tư vấn giám sát của chủ đầu tư, trong quá trình thực hiện hợp đồng và thi công xây dựng công trình, Công ty T thường xuyên bị nhắc nhở, không đảm bảo nhân lực tại công trường, dẫn đến chậm tiến độ. Công ty Housino đã rất nhiều lần phải gia hạn thời gian thực hiện công việc cho công ty T. Mặc dù tiến độ liên tục được xin gia hạn nhưng để phục vụ nghiệm thu PCCC và tiến độ bàn giao, Công ty Housino vẫn đồng ý với nhà thầu T bằng phụ lục cuối cùng số 07 ngày 28/3/2022 gia hạn cho công ty T đến ngày 31/5/2022 hoàn thành các nội dung theo hợp đồng. Việc Công ty T không đảm bảo nhân lực dẫn đến chậm tiến độ thể hiện:
Ngày 9/4/2022, Công ty Housino có công văn nhắc nhở Công ty T thực hiện tiến độ theo cam kết của công văn ngày 2702/2022/CV-CT để nghiệm thu PCCC và bàn giao công trình. Liên tiếp sau đó là các ngày: ngày 16/4/2022, Ban quản lý dự án ra công văn về việc chậm tiến độ; ngày 7/5/2022 và ngày 11/5/2022 các bên gồm Công ty Housino, công ty T, Ban quản lý dự án, Tư vấn giám sát và nhà thầu liên tục họp nhắc nhở tiến độ công việc và yêu cầu Công ty T hoàn thiện các công việc còn lại theo cam kết nhà thầu lập vào ngày 5/5/2022.
Ngày 17/5/2022, Ban quản lý dự án lại gửi công văn lần 2 về việc chậm tiến độ và nghiệm thu PCCC cho công ty T nhằm đôn đốc công việc.
Ngày 5/7/2022, khi công việc đã quá chậm so với phụ lục gia hạn cuối cùng số 07 (tiến độ đến ngày 31/5/2022), Công ty Housino, đã gửi công văn mời nghiệm thu PCCC lần 1. Tuy nhiên do còn nhiều lỗi của công ty T ( theo biên bản kiểm tra kết quả nghiệm thu về PC và CC lần 1) nên công trình vẫn chưa được nghiệm thu PCCC. Các công việc tồn tại theo biên bản kiểm tra được tất cả các thành phần liên quan xác nhận để triển khai hoàn thiện phục vụ lần nghiệm thu PCCC tiếp theo.
Sau nghiệm thu PCCC lần 1 chưa đạt do nhiều lỗi của nhà thầu công ty T, ngày 3/8/2022, Ban quản lý tiếp tục gửi công văn nêu rõ các việc còn tồn tại cần khắc phục cho công ty T và làm việc với công ty T cùng với bộ phận Tư vấn giám sát vào ngày 4/8/2022 để triển khai các công việc tồn tại nhằm đảm bảo nghiệm thu PCCC lần tiếp theo. Ngày 11/10/2022, Công ty T mới hoàn thành các công việc của mình để nghiệm thu PCCC được hoàn tất Việc Công ty T không đảm bảo tiến độ theo đúng cam kết với Chủ đầu tư đã ảnh hưởng đến kế hoạch bàn giao nhà cho khách hàng, gây thiệt hại cho Chủ đầu tư. Vì vậy Công ty H áp dụng quy định của hợp đồng, phạt vi phạm tiến độ đối với Công ty T với tổng số tiền là 4.366.083.720đ (12% giá trị công trình).
Đối với số tiền còn lại theo hợp đồng (phần chưa có hóa đơn), Công ty H chưa thanh toán cho Công ty T là do ngày 26/7/2023, Công ty H mới nhận được hồ sơ thanh quyết toán đầy đủ của Công ty T. Công ty T có chuyển hồ sơ thanh quyết toán cho Công ty H vào tháng 3 nhưng sau đó do hồ sơ thiếu đã mượn lại để bổ sung. Sau khi bổ sung đầy đủ hồ sơ quyết toán, ngày 26/7/2023, Công ty T mới giao hồ sơ quyết toán cho Công ty H. Công ty H thừa nhận việc không thanh toán số tiền còn lại của hóa đơn VAT Công ty T đã xuất là vi phạm nghĩa vụ thanh toán được quy định trong hợp đồng và nếu theo hợp đồng Công ty H phải chịu lãi của số tiền này; cũng thừa nhận đối với khối lượng công việc phát sinh của hợp đồng thì biên bản hiện trường có chữ ký của Tư vấn giám sát, trưởng ban quản lý dự án và Chỉ huy trưởng của nhà thầu là căn cứ để Công ty H thanh toán. Công ty H thừa nhận sau 20 ngày kể từ ngày 26/7/2023, phải thanh toán giá trị còn lại của công trình theo hợp đồng cho Công ty T nhưng vì Công ty T đã khởi kiện Công ty H tại Tòa nên Công ty H để Tòa án phán quyết trách nhiệm của hai bên. Công ty H khẳng định quá trình thực hiện hợp đồng Công ty T không đảm bảo tiến độ theo thỏa thuận làm thiệt hại cho Công ty H vì vậy đã áp dụng quy định của hợp đồng về vi phạm tiến độ phạt Công ty T với số tiền là 4.366.083.720đ. Nay Công ty T khởi kiện yêu cầu Công ty H thanh toán tổng số tiền còn lại của cả hợp đồng là 9.378.143.053đ, khối lượng công việc phát sinh là 277.235.522đ và tiền lãi do chậm thanh toán 90% giá trị của hóa đơn đã xuất là 189.695.614đ, Công ty H vẫn đang rà soát hồ sơ quyết toán của Công ty T nên không có cơ sở để xem xét đối với số tiền còn lại của hợp đồng Công ty T yêu cầu; công ty H không chấp nhận thanh toán số tiền 277.235.522đ khối lượng phát sinh vì chưa được phê duyệt. Trong bối cảnh tình hình khó khăn chung của toàn xã hội, Công ty H vẫn đang cố gắng thu xếp kinh phí để thanh toán cho nhà thầu, vẫn xác nhận trách nhiệm thực hiện theo Hợp đồng và sẽ thanh toán cho nhà thầu sau khi trừ đi số tiền do chậm tiến độ là 4.366.083.720đ.
Tại Bản án sơ thẩm số 44/2023/KDTM-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì nhận định và quyết định như sau:
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Thiết bị và công nghệ T đối với Công ty cổ phần tập đoàn H.
Buộc Công ty cổ phần tập đoàn H phải thanh toán cho Công ty cổ phần Thiết bị và công nghệ T giá trị còn lại của hợp đồng thi công xây dựng được ký giữa hai bên ngày 16/8/2019 là 9.378.143.053đ.
Buộc Công ty cổ phần tập đoàn H phải thanh toán cho Công ty cổ phần Thiết bị và công nghệ T 189.695.614đ tiền vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng của 90% số tiền được thanh toán theo hợp đồng.
Buộc Công ty cổ phần tập đoàn H phải thanh toán cho Công ty cổ phần Thiết bị và công nghệ T 277.235.522đ khối lượng công việc phát sinh theo hợp đồng Tổng số tiền Công ty cổ phần tập đoàn H phải thanh toán cho Công ty cổ phần Thiết bị và công nghệ T là 9.845.074.189đ.
Kể từ ngày người được thi hành án, có đơn yêu cầu xin thi hành án người phải thi hành án còn chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, thi hành án và quyền kháng cáo.
Không đồng ý với Bản án sơ thẩm, ngày 25/9/2023 Công ty cổ phần tập đoàn H có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án sơ thẩm.
Ngày 04/10/2023 Công ty cổ phần thiết bị và công nghệ T, nộp đơn kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm về lãi suất chậm trả Công ty cổ phần tập đoàn H phải thanh toán cho Công ty cổ phần thiết bị và công nghệ Thiên ý Tại phiên tòa: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và người đại diện Công ty cổ phần thiết bị và công nghệ T xin rút yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Công ty cổ phần tập đoàn H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bản án sơ thẩm không có căn cứ, vì bị đơn chưa quyết toán khối lượng phát sinh nên không chấp nhận yêu cầu phải bồi thường số tiền chậm tiến độ bàn giao mặt bằng là 4.366.083.720 đồng theo quy định của pháp luật.
Đại diện VKSND thành phố Hà Nội gia phiên tòa có quan điểm:
- Đơn kháng cáo của các đương sự làm trong thời hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo. Như vậy việc kháng cáo đúng thời hạn theo qui định tại Điều 273 và là kháng cáo hợp lệ.
- Tòa án NDTP Hà Nội thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo qui định tại Điều 285 BLTTDS.
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán: Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán được phân công đã chấp hành đúng qui định của pháp luật TTDS. Về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đảm bảo theo qui định tại Điều 286 BLTTDS. Tòa án đã chuyển hồ sơ và quyết định xét xử cho Viện KS đúng thời hạn theo qui định tại Điều 292 BLTTDS.
- Việc tuân theo pháp luật của HĐXX phúc thẩm: Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX đã thực hiện đúng qui định và yêu cầu chung của phiên tòa phúc thẩm: Thành phần HĐXX phúc thẩm; phạm vi xét xử phúc thẩm đúng qui định tại Điều 64 và Điều 293 BLTTDS.
- Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định tại Điều 51 BLTTDS.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án tại cấp phúc thẩm cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng theo qui định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 72 BLTTDS.
Đề nghị HĐXX : Áp dụng khoản 1 Điều 308 BLTTDS, Luật Xây dựng 2014, Nghị định 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của UBTVQH quy định về án phí đề nghị HĐXX:
+ Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Cty T +Không chấp nhận kháng cáo Cty H.
+ Giữ nguyên bản án KDTMST số 44/2023/KDTM-ST ngày 22/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì.
+ Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận Bị đơn Cty H phải chịu án phí KDTMPT theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Công ty cổ phần tập đoàn H là bị đơn nộp đơn kháng cáo ngày 25/9/2023 và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được coi là kháng cáo hợp lệ đúng quy định của pháp luật.
[2]. Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xác định Tranh chấp HĐ lắp đặt thiết bị PCCC và giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét nội dung kháng cáo:
[3]. Xét nội dung kháng cáo của Nguyên đơn Công ty T: Công ty T kháng cáo một phần bản án sơ thẩm liên quan đến phần nợ lãi chậm thanh toán từ ngày 23/3/2023 đến ngày 3/10/2023 số tiền 764.164.468đồng.
Tại đơn khởi kiện và các bản trình bày tại Tòa án Công ty T đề nghị Tòa án yêu cầu Công ty H thanh toán số tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 17/8/2023 đến khi công ty trả hết nợ. Tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 22/9/2023, Công ty T yêu cầu Công ty H phải thanh toán tổng tiền là 9.845.074.189đồng (bao gồm tiền chậm thanh toán của 90% giá trị khối lượng công việc hoàn thành được thanh toán trên giá trị hợp đồng).
Như vậy, tại cấp sơ thẩm Công ty T không đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu Công ty H phải thanh toán số tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 23/3/2023 đến ngày 3/10/2023 số tiền 764.164.468đồng. Nội dung kháng cáo của Công ty T vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
Ngày 31/01/2024 Công ty T gửi đơn xin rút yêu cầu kháng cáo này, việc rút dơn là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo của công ty T.
[4]. Xét kháng cáo của Công ty H: Kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm liên quan đến số tiền nợ chưa thanh toán, số tiền phát sinh, số tiền lãi.
Công ty T và Công ty H không tranh chấp về nội dung hợp đồng, giá trị hợp đồng thi công xây dựng số 16-8/2019HĐKT/HOUSINCO-THIENY ngày 16/8/2019. Các bên tranh chấp về số tiền thanh toán hợp đồng, Cty T khởi kiện yêu cầu Công ty H thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng, tiền phát sinh, tiền lãi là 9.845.074.189đồng. Công ty H cho rằng trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty T vi phạm tiến độ hoàn thiện công trình gây thiệt hại cho Công ty Housino vì vậy áp dụng theo quy định của hợp đồng phạt Công ty T số tiền 4.366.083.720đồng; Số tiền 277.235.522 đồng phát sinh Công ty H chưa được phê duyệt; Số tiền lãi chậm thanh toán hóa đơn 189.695.614đồng Công ty H đang rà soát hồ sơ quyết toán nên không có cơ sở xem xét; số tiền còn lại Công ty H đang cố gắng xem xét để thanh toán cho nhà thầu sau khi trừ đi số tiền 4.366.083.720đồng.
- Đối với số tiền nợ 9.378.143.053đồng của Hợp đồng 16- 8/2019HĐKT/HOUSINCO-THIENY Ngày 16/8/2019, Công ty T và Công ty H ký kết hợp đồng thi công xây dựng số 16-8/2019HĐKT/HOUSINCO-THIENY về việc thi công hệ thống PCCC, hệ thống tăng áp hút khói, nghiệm thu Hệ thống PCCC với cơ quan chức năng, sửa chữa sai sót và hoàn thiện theo đúng bản vẽ thiết kế đã phê duyệt dự án Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T tại lô CT5 - khu đô thị mới tây Kim Giang - T - Thanh Trì - Hà Nội theo thiết kế đã được Chủ đầu tư phê duyệt. Tổng giá trị theo Hợp đồng là 29.039.728.000đồng. Ngày 27/9/2021, các bên ký phụ lục hợp đồng số 04 điều chỉnh giá trị hợp đồng là 36.384.031.000đồng. Tiếp đó ký 05 phụ lục hợp đồng về gia hạn thời hạn hoàn thành công trình, phụ lục hợp đồng số 07 ngày 28/3/2022, Công ty T phải bàn giao công trình thi công vào ngày 31/5/2022.
Ngày 14/10/2022, Cục cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ- Bộ Công an có văn bản số 2171/NT-PCCC & CNCH-P4 về việc chấp thuận kết quả nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy đối với công trình Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T.
Ngày 20/4/2022, các bên đã ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục thi công xây dựng số 01/A- B/NTHTGT/HOUSINCO-TY. Biên bản thể hiện nghiệm thu hạng mục công trình với chất lượng công trình đạt yêu cầu, khối lượng xây dựng phù hợp với hồ sơ thiết kế, hợp đồng xây dựng và thực tế thi công của Nhà thầu.
Tổng giá trị công việc đã hoàn thành của Công ty Thiên ý có giá trị là 32.079.515.873đồng. Giá trị công việc 4.304.515.127đồng của hợp đồng được Công ty H chuyển cho nhà thầu khác. Công ty T đã xuất hóa đơn VAT là 26.167.461.318đồng và được thanh toán 22.059.782.820đồng.
Theo các hợp đồng thi công xây dựng được hai bên ký ngày 16/8/2019 và phụ lục hợp đồng các bên quyết toán toàn bộ giá trị thực hiện từng hạng mục thi công Phòng cháy chữa cháy theo hợp đồng tổng số tiền 32.079.515.873đồng.
Ngày 02/3/2023, Công ty T đã gửi hồ sơ quyết toán sang cho công ty H để phê duyệt quyết toán và yêu cầu Công ty H thanh toán số tiền còn lại của giá trị công việc đã hoàn thành theo hợp đồng sau khi trừ đi 2% bảo hành giá trị công việc của T là 31.437.925.555 đồng, nhưng đến ngày 14/10/2022, Công ty H mới thanh toán cho Công ty T số tiền 22.059.782.820 đồng, số tiền còn lại 9.378.143.053đồng.
Công ty H cho rằng quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đã vi phạm tiến độ bàn giao công trình theo hợp đồng hai bên thỏa thuận nên khấu trừ số tiền 4.366.083.720đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 7.3 của Hợp đồng quy định về Gia hạn thời gian hoàn thành: Công ty T được phép …gia hạn thời gian hoàn thành nếu do một trong những lý do sau: Có sự thay đổi phạm vi công việc, thiết kế, biện pháp thi công theo yêu cầu của Chủ đầu tư làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng; Các phụ lục hợp đồng số 01, 02, 03, 05, 06 và cuối cùng phụ lục 07 các bên thỏa thuận gia hạn thời hạn hoàn thành công trình với lý do theo tiến độ chung của dự án. Điều này thể hiện việc gia hạn thời hạn hoàn thành công trình đều được các đương sự thống nhất, tự nguyện, Công ty H không cung cấp được tài liệu chứng minh Công ty T vi phạm tiến độ cụ thể từng hạng mục thi công cũng như thiệt hại công ty phải chịu trách nhiệm do Công ty T gây ra. Vì vậy, Công ty H yêu cầu khấu trừ số tiền 4.366.083.720đồng là không có cơ sở.
Do đó, bản án sơ thẩm buộc Công ty H phải thanh toán cho Công ty T giá trị còn lại của hợp đồng là 9.378.143.053đồng là có căn cứ.
- Đối với yêu cầu buộc Công ty H phải thanh toán tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với khối lượng công việc được thanh toán 90% giá trị hợp đồng Ngày 14/10/2022, Cục cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ- Bộ công an có văn bản số 2171/NT-PCCC & CNCH-P4 về việc chấp thuận kết quả nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy đối với công trình Tổ hợp văn phòng và nhà ở H T. Trong đó giá trị Công ty T đã xuất hóa đơn VAT là 26.167.461.318 đồng. Theo điểm c mục 8.2 của hợp đồng thi công xây dựng được ký giữa hai bên ngày 16/8/019, Công ty T phải được thanh toán 90% giá trị hợp đồng là 23.550.715.186đồng (của số tiền đã xuất hóa đơn), nhưng đến ngày 14/10/2022, Công ty H mới thanh toán cho Công ty T 22.059.782.820đồng, vì vậy đã chậm thanh toán cho Công ty T là 1.490.932.366đồng.
Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T buộc Công ty H phải thanh toán lãi của số tiền chậm thanh toán này từ ngày 14/10/2022 đến ngày 22/9/2023 (ngày xét xử sơ thẩm) theo lãi suất quá hạn của ngân hàng thương mại nơi Công ty T mở tài khoản bảo lãnh với số tiền 189.695.614đồng là phù hợp với mục 20.3 của Hợp đồng quy định về vi phạm thanh toán; điểm d khoản 4 Điều 146 Luật xây dựng và khoán 2 Điều 43 Nghị định 37/2015/NĐ-CP 22/4/2015.
- Đối với cầu thanh toán khối lượng công việc phát sinh là 277.235.522đồng Theo điểm b Điều 9 của Hợp đồng về Điều chỉnh giá trị hợp đồng quy định: Đối với khối lượng công việc phát sinh nhỏ hơn hoặc bằng 20% khối lượng công việc tương ứng ghi trong hợp đồng thì áp dụng đơn giá trong hợp đồng, Công ty T yêu cầu được tính giá trị khối lượng công việc phát sinh theo hợp đồng là phù hợp với quy định trên. Công ty Hosinco và Công ty T đều thừa nhận giá trị khối lượng công việc hoàn thành được thanh toán khi có chữ ký xác nhận của Tư vấn giám sát, trưởng ban quản lý dự án và chỉ huy trưởng công trình, tại Biên bản hiện trường ngày 16/3/2022 về việc khối lượng công việc phát sinh đều có chữa ký của thành phần trên. Tuy nhiên, Công ty H cho rằng phần công việc này chưa được chủ đầu tư phê duyệt nên không thanh toán là không phù hợp với thực tế và hợp đồng các bên ký kết. Vì vậy, Công ty T yêu cầu Công ty H thanh toán khối lượng công việc phát sinh theo hợp đồng tương ứng với số tiền 277.235.522đồng là có căn cứ đúng quy định tại Điều 144 Luật xây dựng; điểm c khoản 2 Điều 38 Nghị định 37/2015/NĐ-CP. Do đó, nội dung kháng cáo này của Công ty H không có cơ sở chấp nhận.
Như vậy Bản án sơ thẩm buộc Công ty H phải thanh toán cho Công ty T tổng số tiền là 9.845.074.189 đồng là có căn cứ nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty H.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đúng với quan điểm của Hội đồng xét xử.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn thi hành án, người phải thi hành án phải chịu lãi suất của số tiền chậm thanh toán tương đương với thời gian chậm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS.
[5]. Về án phí sơ thẩm: Công ty H phải chịu 117.845.000đ án phí KDTM có giá ngạch, Công ty T được hoàn lại 57.900.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 63781 ngày 19/7/2023 tại Chị cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì.
[6]. Về án phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty H nên phải chịu án phí phúc thẩm. Công ty T xin rút yêu cầu kháng cáo sau khi mở phiên tòa nên phải chịu án phí phúc thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 và khoản 5 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Công ty T 2. Không chấp nhận kháng cáo Công ty H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 44/2023/KDTM-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì.
3. Về án phí phúc thẩm: Công ty H và Công ty T mỗi công ty phải chịu 2.000.000 đồng án phí phúc thẩm được trừ vào số tiền đã nộp theo các Biên lai số 3926 ngày 29/9/2023 và số 63941 ngày 04/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 01/02/2024).
Bản án 30/2024/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng lắp đặt thiết bị PCCC
Số hiệu: | 30/2024/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về