TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
HVQ, sinh ngày 11/7/1993 tại Quảng Trị; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn TT, xã HT, huyện HL, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Hồ Văn T (đã chết) và bà Trần Thị T, sinh năm 1973, hiện trú tại: Thôn TT, xã HT, huyện HL, tỉnh Quảng Trị, vợ: Lê Thị Mỹ L, sinh năm 1992, hiện trú tại: thôn Thôn TT, xã HT, huyện HL, tỉnh Quảng Trị, con: Hồ Gia Nhật M, sinh năm 2019; Hồ Gia Nhã U, sinh năm 2023.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 24/8/2023 cho đến nay - Có mặt.
Bị hại: Cháu Trần Thiện N, sinh ngày 30/3/2012; Địa chỉ: Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị (đã chết).
Người đại diện hợp pháp và đại diện theo ủy quyền của cháu Trần Thiện N, ông X, sinh năm 1977; địa chỉ: Đội 3, thôn Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị - Là bố đẻ cháu N (văn bản ủy quyền ngày 11/7/2023), vắng mặt.
Bị đơn dân sự: Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Vận tải NM, địa chỉ: Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị. Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Ông B, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị là Giám đốc Công ty, vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Thái Xuân H; sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 06 giờ 50 phút ngày 24/6/2023, HVQ, sinh năm 1993; trú tại: Thôn TT, xã HT, huyện HL, tỉnh Quảng Trị (có giấy phép lái xe hạng FC) điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx từ sân của Công ty NM có trụ sở tại Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị đến khu vực ngã tư gần Công ty với mục đích đỗ xe. Khi xe do Quốc điều khiển vào khu vực ngã tư đường nội thôn thuộc địa phận Thôn AT, xã TT, huyện TP, vì nghĩ đường thông thoáng không có ai nên Q chủ quan không bật đèn tín hiệu, không quan sát hai bên mà đánh lái cho xe chuyển hướng sang phải để đỗ xe ở khu vực bên phải đường. Trong lúc xe chuyển hướng, do thiếu chú ý quan sát nên Q không nhìn thấy cháu Trần Thiện N, sinh năm 2012; trú tại thôn Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị đang đạp xe phía trước nên bánh xe phía trước bên phải xe ô tô đầu kéo của Q đang điều khiển va chạm với xe cháu Nhân dẫn đến cháu Nhân nằm dưới khu vực bánh xe. Do không biết đã va chạm với cháu N nên Q tiếp tục nhấn ga dẫn đến xe ô tô do Q điều khiển cán qua xe đạp và đè lên người cháu N. Lúc này, người dân gần đó thấy vậy và hô hoán nên Q dừng xe kéo phanh tay xuống xe qua kiểm tra phát hiện cháu bé bị xe của Q chèn qua. Hậu quả: Cháu Trần Thiện N chết tại chỗ.
Tại bản kết luận giám định tử thi số: 645/KL-KTHS ngày 05 tháng 7 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Nguyên nhân chết của cháu Trần Thiện N: Đa chấn thương.
Tại bản kết luận giám định số: 744/KL-KTHS ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận:
1. Vị trí va chạm giữa xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx với xe đạp là: Lốp trước bên phải xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx va chạm với phần bên phải xe đạp gồm các vị trí: sườn, đùi đĩa, phuộc, ghi đông.
Tại thời điểm xảy ra va chạm, xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx tác động so với xe đạp theo hướng từ phải qua trái, trong trạng thái tỳ, đè, lăn qua. Xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx và xe đạp chuyển động cùng chiều theo hướng Đông Nam đi Tây Bắc và đang chuyển hướng sang phải.
2.Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx với xe đạp trên hiện trường là: Vị trí xe đạp đánh số (1) được mô tả và ghi nhận trong hồ sơ khám nghiệm hiện trường Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 06/QĐXLVC ngày 25/8/2023, trả lại cho các đại diện chủ sở hữu hợp số tài sản gồm: một xe ô tô đầu kéo, BKS 74C- xxxxx nhãn hiệu JAC; một giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, số 2086007 đối với phương tiện xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx; một xe đạp, xe đã qua sử dụng bị hư hỏng do tai nạn giao thông.
Vật chứng còn lại: một giấy phép lái xe hạng FC số 46015268xxxx mang tên HVQ. Do Sở giao thông vận tải tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 05/2/2021 có giá trị đến ngày 05/2/2026, hiện đang có tại hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKSTP, ngày 01/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong truy tố HVQ về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo HVQ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt HVQ từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định; về trách nhiệm dân sự: bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận xong vấn đề bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét; Về vật chứng: Trả lại HVQ 01 Giấy phép lái xe ô tô.
Về dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận xong vấn đề trách nhiệm dân sự và không yêu gì thêm về dân sự nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Triệu Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo HVQ tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra, phù hợp với lời trình bày của đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, bị đơn dân sự có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 06 giờ 50 phút ngày 24/6/2023, bị cáo HVQ (có giấy phép lái xe hạng FC) điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx từ sân của Công ty NM có trụ sở tại Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị đến khu vực ngã tư gần Công ty với mục đích đỗ xe. Khi xe do Q điều khiển vào khu vực ngã tư đường nội thôn thuộc địa phận Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị, vì nghĩ đường thông thoáng không có ai nên Q chủ quan không bật đèn tín hiệu, không quan sát hai bên mà đánh lái cho xe chuyển hướng sang phải để đỗ xe ở khu vực bên phải đường. Trong lúc xe chuyển hướng, do thiếu chú ý quan sát nên Q không nhìn thấy cháu Trần Thiện N, sinh năm 2012, trú tại: Thôn AT, xã TT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị đang đạp xe phía trước nên bánh xe phía trước bên phải xe ô tô đầu kéo của Q đang điều khiển va chạm với xe cháu N dẫn đến cháu N tử vong.
[3] Như vậy hành vi nêu trên của HVQ đã vi phạm khoản 1, 2 Điều 15 Luật Giao thông đường bộ quy định chuyển hướng xe. Điều 15 Luật Giao thông đường bộ quy định:
“1. Khi muốn chuyển hướng, người điều khiển phương tiện phải giảm tốc độ và có tín hiệu báo hướng rẽ.
2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác.”.
Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ Luật hình sự. Nội dung điều luật quy định như sau:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a) Làm chết người...”.
[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng và gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự, cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường khắc phục toàn bộ thiệt hại. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính và duy nhất trong gia đình. Bị cáo phải nuôi hai con đang còn nhỏ, sinh năm 2019 và 2023, vợ bị cáo thường xuyên ốm đau, có xác nhận của chính quyền địa phương. Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên cần xem xét các tình tiết này cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quá trình nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú theo giỏi cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong tại phiên tòa và phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đã thỏa thuận bồi thường toàn bộ thiệt hại. Ông X là đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. [6] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong đã trả cho Công ty Cổ phần thương mại và Dịch vụ vận tải NM một xe ô tô đầu kéo, BKS 74C- xxxxx nhãn hiệu JAC và một giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, số 2086007 đối với phương tiện xe ô tô đầu kéo BKS 74C- xxxxx; trả lại cho ông X là bố của bị hại 01 chiếc xe đạp bị hư hỏng do tai nạn giao thông và họ không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với 01 giấy phép lái xe hạng FC số 46015268xxxx mang tên HVQ do Sở giao thông vận tải tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 05/2/2021 có giá trị đến ngày 05/2/2026. Hội đồng xét xử xét thấy đây là giấy tờ của bị cáo, không phải là vật chứng của vụ án nên trả lại giấy phép lái xe cho bị cáo.
[7] Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc HVQ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo HVQ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt HVQ 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/11/2023. Giao bị cáo HVQ cho UBND xã HT, huyện HL, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã HT, huyện HL, tỉnh Quảng Trị trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về xử lý vật chứng (giấy tờ tạm giữ):
Trả lại cho bị cáo HVQ một giấy phép lái xe hạng FC số 46015268xxxx mang tên HVQ do Sở giao thông vận tải tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 05/2/2021 (hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án). Khi án có hiệu lực pháp luật, Tòa án sẽ trả lại giấy phép lái xe cho bị cáo.
3. Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ Luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo HVQ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của bị hại, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.
Bản án 30/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 30/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về