TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 30/2021/HSST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 25 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Vũ Đình H, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: Xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Trú tại: Xóm 5, thôn D, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Vũ Đức B, sinh năm 1954; Con bà Phạm Thị M, sinh năm 1956; Gia đình có 2 chị em, bị cáo là thứ hai; Vợ Nguyễn Thị M, sinh năm 1994; Có 02 con: Con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/10/2017 bị TAND huyện Trực Ninh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 05/5/2018; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định (có mặt).
2. Đàm Văn P, sinh năm 1989; Nơi ĐKHKTT: Thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định; Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Đàm Văn Đ (đã chết); Con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1965; Gia đình có 4 chị em, bị cáo là thứ 4; Vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1999; Có 01 con sinh năm 2021.
Nhân thân:
- Ngày 06/12/2006 bị TAND tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong ngày 31/01/2008.
Tiền án:
- Ngày 28/3/2011 bị TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 14/10/2013.
- Ngày 12/11/2014 bị TAND thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong ngày 28/5/2019.
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định (có mặt).
Những người làm chứng:
- Ông Trần Văn N, sinh năm 1962 (vắng mặt).
- Ông Phạm Văn C, sinh năm 1972 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đàm Văn P và Vũ Đình H là bạn nghiện ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 06/01/2021, P một mình đi nhờ xe xuống khu vực ngã ba giao với đường TL 488 sau đó đến chơi tại nhà H. Lúc này chỉ có H ở nhà, quá trình ngồi chơi H có nhu cầu sử dụng ma túy nên nảy sinh ý định rủ P góp tiền cùng mình mua ma túy về sử dụng chung, H nói: “Anh có tiền không, anh em mình góp tiền làm tí về chơi”. P hiểu ý H là rủ mình góp tiền mua ma túy về cùng sử dụng, P đồng ý và nói: “Tao có ba chục thôi”. H nói tiếp: “Em có trăm bảy, anh em mình vừa tròn hai trăm, sang Trực Đại làm quả hai trăm chơi chung”, ý H nói là cả hai góp được 200.000 đồng và cùng sang khu vực xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định mua 200.000 đồng ma túy để sử dụng chung. P lấy 30.000 đồng đưa cho H, H nhận tiền rồi lấy tiền của mình ra và bỏ tất cả số tiền này vào túi. H cầm theo 02 xi lanh nhựa còn mới và 01 ống nước cất rồi cùng P đi bộ từ nhà mình sang khu vực đường đê xã Trực Đại. Khi cả hai đi đến đoạn đường dong xóm giao với đường đê thuộc khu vực xóm Cường Liêm, xã Trực Đại, huyện Trực Ninh thấy có 01 người đàn ông không quen biết khoảng 40 tuổi đang đứng một mình . Nghĩ người này bán ma túy, H bảo P đứng đợi trên đê rồi một mình đi đến gặp người đàn ông này, H hỏi: “Có trắng không, để em quả hai trăm”, ý hỏi mua Heroine với giá 200.000 đồng, người đàn ông nói: “Có, đưa tiền đây”. H lấy 200.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này nhận tiền đồng thời đưa lại cho H 01 gói ma túy được gói bằng giấy báo, H cầm gói ma túy ở tay trái và quay về. Quá trình H mua ma túy, P đứng trên quan sát và biết H đã mua được ma túy. H quay lại chỗ P đang đứng và nói: “Dưới kia có mấy cái nhà hoang, em cầm đồ rồi, anh em mình xuống đấy chơi” ý nói là đã mang theo xi lanh, nước cất để sử dụng ma túy, P đồng ý nói: “Ừ” rồi đi bộ theo H thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ:
- Thu dưới nền đường ngay tại vị trí H đứng 01 gói ma túy được gói bằng giấy báo, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, H khai đây là gói ma túy H đã bỏ xuống đất khi bị Công an kiểm tra, được niêm phong ký hiệu M.
- Thu tại áo khoác ngoài bên phải của H đang mặc 02 xi lanh nhựa, 01 ống nước cất đều chưa qua sử dụng.
Bản kết luận giám định số: 48/GĐKTHS ngày 09/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói nhỏ bằng giấy báo trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,149 gam.
Tại cơ quan điều tra, Vũ Đình H và Đàm Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Tại bản cáo trạng số: 22/CT-VKS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Vũ Đình H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, truy tố bị cáo Đàm Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.
Tại phiên tòa:
- Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nhận xét nêu trên, các bị cáo ăn năn hối cải và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Vũ Đình H, Đàm Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 BLHS: Xử phạt Vũ Đình H mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (06 - 01 - 2021).
Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 BLHS: Xử phạt Đàm Văn P mức án từ 05 năm tù đến 05 năm, 06 tháng tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (06 - 01 - 2021).
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroine đã thu giữ trong quá trình điều tra còn lại sau giám định. Tịch thu tiêu hủy 02 xi lanh nhựa và 01 ống nước cất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trực Ninh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác trong hồ sơ đã đủ cơ sở kết luận:
Ngày 06/01/2021, Vũ Đình H rủ Đàm Văn P góp tiền cùng nhau đi mua 0,149 gam ma túy Heroine cất giấu trong người để sử dụng chung thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang vào khoảng 08 giờ cùng ngày tại đường đê thuộc xóm Cường Liêm, xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Hành vi tàng trữ trái phép 0,149 gam ma túy Heroine mục đích để sử dụng của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 BLHS. Đối với bị cáo Vũ Đình H bị xét xử theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, đối với bị cáo Đàm Văn P, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” nên phải chịu trách nhiệm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS như cáo trạng VKSND huyện Trực Ninh đã truy tố đối với các bị cáo.
[3] Về vị trí vai trò của các bị cáo trong vụ án:
Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có tính chất đồng phạm. Bị cáo Vũ Đình H là người khởi xướng, rủ rê và góp 170.000 đồng cùng P mua ma túy, xếp vai trò số 1. Bị cáo Đàm Văn P góp 30.000 đồng cùng H đi mua ma túy, xếp vai trò số 2.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết nào.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo P có con còn nhỏ đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
[6] Về hình phạt: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; HĐXX nhận thấy: Các bị cáo Vũ Đình H, Đàm Văn P đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được việc nhà nước nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng do mắc nghiện các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Về hình phạt cần phải xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc, buộc các bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo việc, giáo dục, cải tạo các bị cáo.
[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên HĐXX thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroine đã thu giữ trong quá trình điều tra còn lại sau giám định. Tịch thu tiêu hủy 02 xi lanh nhựa và 01 ống nước cất là dụng cụ để sử dụng ma túy thu giữ của bị cáo H.
[9] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho H, nhưng H không biết tên, tuổi, nơi ở của người đó. CQCSĐT đã xác minh nhưng không xác định được đối tượng để xử lý.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Vũ Đình H, Đàm Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
1.1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 BLHS: Xử phạt Vũ Đình H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (06 - 01 - 2021).
1.2. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 BLHS: Xử phạt Đàm Văn P 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (06 - 01 - 2021).
2. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Vũ Đình H và bị cáo Đàm Văn P.
3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroine đã thu giữ trong quá trình điều tra còn lại sau giám định.
- Tịch thu tiêu hủy 02 xi lanh nhựa và 01 ống nước cất là dụng cụ để sử dụng ma túy thu giữ của bị cáo H (Vật chứng có đặc điểm như tại Biên bản giao nhận vật chứng số: 30/THA ngày 05 tháng 5 năm 2021 giữa CQCSĐT Công an huyện Trực Ninh với của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định).
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Vũ Đình H, Đàm Văn P mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
Các bị cáo Vũ Đình H, Đàm Văn P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.
Bản án 30/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 30/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về