TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG - TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2021/TLST-HS, ngày 06 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Thị T, sinh ngày 25/10/1970 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Trú tại: thôn G, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn Q (đã chết) và bà: Nguyễn Thị C, sinh năm 1937; Chồng: Hà Xuân H (đã chết), con: có 03 con, lớn sinh năm 1987 (đã chết), nhỏ sinh năm 1996; Tiền sự: không:
- Tiền án: Có 03 tiền án.
+ Bản án số 123/2007/HSST ngày 22/11/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, xử phạt Trần Thị T 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Phạt tiền 5.000.000 đồng sung quỹ nhà nước, chịu 50.000 đồng án phí. Đã thi hành nộp 50.000 đồng án phí và 475.000 đồng tiền phạt sung quỹ nhà nước. Còn 4.525.000 đồng TAND TP Lào Cai ra QĐ miễn thi hành số 11 ngày 26/5/2016. Ngày 07/5/2009 chấp hành xong hình phạt tù.
+ Bản án số 141/2010/HSST ngày 09/11/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, xử phạt Trần Thị T 02 năm 09 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy. Phạt tiền 5.000.000 đồng sung quỹ nhà nước, chịu 200.000 đồng án phí. Ngày 23/02/2013 chấp hành xong hình phạt tù (Bản án tuyên tái phạm).
+ Bản án số 130/2013/HSST ngày 23/9/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, xử phạt Trần Thị T 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Phạt tiền 5.000.000 đồng sung quỹ nhà nước, chịu 200.000 đồng án phí. Chưa thi hành tiền phạt và án phí. Ngày 28/4/2019 ra trại (Bản án tuyên tái phạm nguy hiểm).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/10/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 14 giờ ngày 21/10/2020, tại UBND xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Sơn Dương lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Thị T, sinh năm 1970, trú tại thôn G, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Trần Thị T giao nộp trong túi áo phía trước, bên phải 02 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà. Trần Thị T khai là heroine mua về để bán cho người khác. Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng thu giữ và xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Trần Thị T, kết quả (-) Âm tính, không có chất ma túy trong cơ thể Trần Thị T.
Tại Kết luận giám định số 805 ngày 23/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: số chất bột vón cục màu trắng ngà trong 02 gói nhỏ thu giữ của Trần Thị T là heroine, có khối lượng 1,284 gam (Một phẩy hai tám bốn gam).
Quá trình điều tra, Trần Thị T đã khai nhận: Do không có tiền chi tiêu nên Trần Thị T nảy sinh ý định đi mua heroine về bán cho người khác để kiếm lời. Khoảng 15 giờ ngày 20/10/2020 Trần Thị T thuê xe ôm đi từ khu vực cầu K thuộc thôn K, xã H, huyện Sơn Dương đến khu vực xã V, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ để tìm mua heroine về bán. Tại đây T gặp và mua được từ một người phụ nữ khoảng 45 tuổi 02 gói heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 2.000.000 đồng. T cho heroine vào túi áo phía trước, bên phải và thuê xe ôm đi về nhà. Khoảng 13 giờ ngày 21/10/2020 T mặc áo và cất 02 gói heroine đi đến đường liên thôn thuộc thôn G, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, mục đích nếu có người hỏi mua sẽ bán, thì bị tổ công tác Công an huyện Sơn Dương phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.
Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSSD, ngày 04/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố Trần Thị T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Thị T theo tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thị T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
- Căn cứ điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trần Thị T từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/10/2020.
Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong có chứa ma túy loại heroin, bên ngoài phong bì trên các mép dán có chữ ký xác nhận của Trần Thị T, thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của cơ quan giám định.
Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Trần Thị T không có ý kiến tham gia tranh luận đối với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ ngày 21/10/2020, tại thôn G, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Trần Thị T, sinh năm 1970, trú tại thôn G, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi cất giấu trên người 1,284gam (Một phẩy hai tám bốn gam) heroine, mục đích để bán, nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện, bắt giữ.
Hành vi của bị cáo Trần Thị T đã phạm vào tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng vì mục đích vụ lợi bị cáo vẫn bán ma túy để kiếm lời. Hành vi của bị cáo không những ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác mà còn làm gia tăng tệ nạn xã hội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không có Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.
Quá trình điều tra xác định bị cáo không có tài sản gì riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
[3] Về việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:
Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp. Vì vậy, các chứng cứ có trong hồ sơ đều được thu thập theo trình tự tố tụng và hợp pháp.
[4] Về vật chứng vụ án: Cơ quan CSĐT Công an huyện Sơn Dương tạm giữ: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong có chứa 02 gói heroin gói bằng giấy bạc màu vàng có khối lượng 1,284 gam. Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy rằng đây là vật chứng của vụ án và là chất ma tuý thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ:
[5] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[6] Các vấn đề khác:
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Trần Thị T tại khu vực xã V, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ và người lái xe ôm chở T đi mua heroin do không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra, xử lý nên HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
I. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
II. Về hình phạt: Xử phạt Bị cáo Trần Thị T 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/10/2020.
III. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong có chứa ma túy loại heroin, bên ngoài phong bì trên các mép dán có chữ ký xác nhận của Trần Thị T, thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của cơ quan giám định.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/01/2021 giữa Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương).
IV. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:
Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 30/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 30/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về