TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG - TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở UBND xã AN, huyện MA, tỉnh Điện Biên, TAND huyện Mường Ảng mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2020/TLST-HS, ngày 16 tháng 12 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HS, ngày 06/01/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Tòng Văn L; Tên gọi khác: Tòng Văn N; Giới tính: Nam; Sinh năm 1976, nơi sinh: huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản CS, xã AN, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 5/12; Bố đẻ: Tòng Văn H (đã chết) và mẹ đẻ Tòng Thị G, sinh năm 1943; Bị cáo có 05 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 04 trong gia đình; Bị cáo chung sống với nhau như vợ chồng với chị Lò Thị S từ năm 1994 đến năm 2000 và có 01 người con chung; chung sống với nhau như vợ chồng với Lò Thị Th từ năm 2005 đến năm 2011 và có 01 người con chung; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án; Đã bị xử lý hành chính: Năm 2002 bị UBND tỉnh Lai Châu đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng và năm 2006 bị UBND tỉnh Điện Biên đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng; Năm 2013 bị Công an huyện Mường Ảng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Phạt cảnh cảo).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện MA, tỉnh Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Để có ma túy sử dụng, khoảng 08 giờ ngày 24/10/2020 Tòng Văn L đi từ Bản CS, xã AN xuống bản CN, xã Ẳng Tở, huyện MA gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết 01 gói nhỏ Heroine, gói bằng mảnh giấy bạc màu vàng với giá 100.000đ. Mua được Heroine Tòng Văn L đi về nhà, trên đường về đến tổ dân phố 6, thị trấn Mường Ảng, huyện MA thì gặp Tổ công tác Công an thị trấn Mường Ảng đang làm nhiệm vụ, Qua kiểm tra đã thu giữ trong túi quần bên trái Tòng Văn L đang mặc 01 gói nhỏ Heroine, được gói bằng mảnh giấy bạc màu vàng, có khối lượng 0,16 gam. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội qua tang, niêm phong vật chứng để xác minh làm rõ.
Theo biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 24/10/2020 của Công an huyện Mường Ảng và Kết luận giám định số 940/GĐ-PC09, ngày 25 tháng 10 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:
- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.
- Khối lượng vật chứng thu giữ của Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) là: 0,16 gam - Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 09, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Tại bản cáo trạng số: 03/CT-VKSMA ngày 14/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mường Ảng để xét xử bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N): Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 14 đến 16 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu để tiêu hủy: 0,12 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.
Bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản Cáo trạng cũng như bản luận tội của VKSND huyện Mường Ảng, bị cáo không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Nội dung vụ án:
Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) đã khai và công nhận: Hồi 10 giờ 10 phút ngày 24/10/2020, tại tổ dân phố 6, thị trấn Mường Ảng, huyện MA, tỉnh Điện Biên bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) bị bắt vì đang tàng trữ 0,16 gam Heroine, mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 03/CT-VKSMA, ngày 14/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bị cáo tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine đủ định lượng buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
…c) Heroine,…, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam".
[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, được quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.
[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra: Hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được bố mẹ sinh ra và lớn lên tại huyện MA, tỉnh Điện Biên, bị cáo học hết lớp 5/12 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Bị cáo chưa có tiền án; tiền sự. Nhân thân của bị cáo: Năm 2002 bị UBND tỉnh Lai Châu đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng và năm 2006 bị UBND tỉnh Điện Biên đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng; Năm 2013 bị Công an huyện MA xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Phạt cảnh cảo). Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo vẫn cố ý mua và tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine với mục đích để sử dụng. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 cho bị cáo. Bị cáo không phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.
Bị cáo với nghề nghiệp làm ruộng, ngoài ra không có thu nhập nào khác, gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHST: Tịch thu để tiêu hủy: 0,12 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
[6] Đối với người đàn ông dân tộc Thái đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi và địa chỉ cụ thể của người này ở đâu, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có đủ cơ sở xác minh làm rõ.
[7] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.
[8] Quyết định truy tố của VKSND huyện Mường Ảng; ý kiến của vị đại diện VKS, ý kiến của bị cáo qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[9] Trong quá trình điều tra, truy tố: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tòng Văn L (tên gọi khác Tòng Văn N) 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 24/10/2020)
2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS: Tịch thu để tiêu hủy: 0,12 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Ảng và Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng lập ngày 14/12/2020).
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.
4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 30/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 30/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về