Bản án 30/2021/HS-ST ngày 14/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG

 BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 03 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngụy Thế B, sinh ngày 23/01/2003 tại tỉnh Bắc Giang; tên gọi khác: không; nơi đăng ký ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã T, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn thể: Không; con ông Trương Văn S, sinh năm 1958 và bà Ngụy Thị H, sinh năm 1969; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo đầu thú, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hiện tại ngoại, (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1. Anh Lại Văn Ph, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Nguyễn Đăng Ng, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố 5, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Ðăng H, sinh năm 1977 (vắng mặt) Ðịa chỉ: Thôn Long Trường V, xã Y, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

- Người làm chứng: Anh Ðàm Ðức Th, sinh năm 1986 (vắng mặt) Ðịa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngụy Thế B, sinh ngày 23/01/2003 ở thôn Đ, xã T, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang là đối tượng không có việc làm ổn định, ham chơi, lười lao động. Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Ban nảy sinh ý định trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Trong khoảng thời gian từ ngày 29/11/2020 đến ngày 04/12/2020, Ban đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản của nhiều hộ gia đình trên địa bàn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Cụ thể:

Vụ thứ nhất:

Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 29/11/2020, B từ nhà đi ra đường thôn, khi đi đến khu vực cổng nhà anh Lại Văn Ph sinh năm 1982 ở cùng thôn, thì B phát hiện thấy cổng và cửa chính nhà anh Ph mở, ở trong sân có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ - đen, BKS: 98B2-709.22, trên ổ khoá điện vẫn cắm khoá. Quan sát thấy không có ai ở nhà, B nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô của anh Ph đem đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân rồi B đi đến chỗ để xe, dắt xe ra ngoài cổng, nổ máy rồi điều khiển xe đi đến quán điện tử của anh Nguyễn Văn H sinh năm 1977, ở đường Ph, thuộc tổ dân phố số 4, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng, B mở cốp xe thì thấy chỉ có một đăng ký xe mô tô, sau đó cất dấu xe vào khu vực không ai để ý, rồi vào ngồi chơi điện tử. Đến khoảng 06 giờ ngày 01/12/2020, B bán chiếc xe trộm cắp của anh Ph cho anh H được 10.000.000đ. Toàn bộ số tiền bán xe trộm cắp, Ban đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Khoảng 16 giờ cùng ngày, phát hiện chiếc xe mô tô dựng ở sân bị mất trộm, nên anh Phđã làm đơn trình báo. Ngày 08/12/2020, cơ quan đi ều tra thu giữ tại quán điện tử của anh Nguyễn Văn H ở đường Ph, Tổ dân phố 4, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng chiếc xe mô tô 98B2-709.22 do B trộm cắp của anh Ph và 01 tờ giấy mua bán xe.

Tại kết luận giám định số 118 ngày 10/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: Chiếc xe mô tô B trộm cắp của anh Ph trị giá tại thời điểm trộm cắp là 13.547.000đ.

Vụ thứ hai:

Chiều tối ngày 04/12/2020, Ngụy Thế Bmột mình đi bộ trên địa bàn thị trấn Nh, huyện Yên Dũng với mục đích tìm xem có ai để tài sản sơ hở thì vào trộm cắp. Khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, B đi đến khu vực trước cửa nhà anh Nguyễn Đăng Ng, sinh năm 1975, ở tổ dân phố số 5, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng, thấy cửa nhà anh Ng mở, quan sát thấy không có người trong nhà, B đi thẳng vào trong nhà, vào phòng ngủ ở tầng 1 thì thấy có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu vàng đen để ở trên két sắt kê cạnh lối ra vào phòng ngủ, B trộm cắp chiếc điện thoại cất dấu vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi trốn ra ngoài rồi lấy chiếc điện thoại trộm cắp được ra kiểm tra thì thấy điện thoại có cài đặt mật khẩu không mở được, nên B mang chiếc điện thoại trộm cắp đến quán sửa chữa, mua bán điện thoại Đàm Th của anh Đàm Đức Th, sinh năm 1986 ở tổ dân phố số 4, thị trấn Nh để nhờ phá mật khẩu. Khi nhận chiếc điện thoại B đưa, anh Th mở thì thấy ảnh nền màn hình khóa là ảnh anh Nguyễn Đăng Ng là người quen của anh Th nên anh Th đã bí mật thông báo anh Ng đến. Biết hành vi phạm tội của mình bị phát hiện, B bỏ lại tài sản trộm cắp bỏ trốn.

Ngày 08/12/2020, Bđã đến Cơ quan điều tra, Công an huyện Yên Dũng đầu thú khai nhận hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận định giá tài sản 119 ngày 10/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: Chiếc điện thoại Samsung GalaxyJ4+ màu vàng đen tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá là 2.643.000đ.

Ngày 26 và 28/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng đã trả lại anh Lại Văn Ph chiếc xe mô tô do Ban trộm cắp, trả lại anh Ngchiếc điện thoại di động. Anh Ph và anh Ng đã nhận lại, không yêu cầu bồi thường gì khác. Anh Nguyễn Văn H yêu cầu Ngụy Thế B bồi thường cho anh 10.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số: 23/CT-VKSYD ngày 03/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng đã truy tố bị cáo Ngụy Thế B về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

+ Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như tại cơ quan điều tra đã khai nhận, thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan.

+ Bị hại là anh Lại Văn Ph vắng mặt tại phiên tòa nhưng các lời khai trong hồ sơ thể hiện: Ngày 29/11/2020 anh để xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ - đen, KBS: 98B2-709.22 ở sân, trên ổ khóa điện vẫn cắm khóa và bị B lấy trộm.

Ngày 26/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh, anh đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì.

+ Bị hại là anh Nguyễn Đăng Ng vắng mặt tại phiên tòa nhưng các lời khai trong hồ sơ thể hiện: Ngày 04/12/2020, anh bị B lấy trộm điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu vàng đen. Ngày 28/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng đã trả lại điện thoại cho anh và không yêu cầu gì.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn H vắng mặt tại phiên tòa trình bày: Ngày 01/12/2020, anh mua lại của B chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ - đen, KBS: 98B2-709.22 với giá 10.000.000đồng, anh không biết đó là xe mà B trộm cắp được. Ngày 08/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng đã thu hồi lại chiếc xe. Nay anh yêu cầu B trả cho anh 10.000.000đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngụy Thế B phạm tội “Trộm cắp tài sản".

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 90, Điều 91, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngụy Thế B từ 08 tháng đến 10 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Ngụy Thế Bphải trả cho anh Nguyễn Văn H số tiền 10.000.000đồng.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận, bào chữa gì, nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng về tội danh cũng như hình phạt. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Dũng và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng như Điều tra viên và Kiểm sát viên thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về người tham gia tố tụng thì thấy: Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án có triệu tập bà Ngụy Thị G là người đại diện hợp pháp cho bị cáo, nhưng tại phiên tòa bị cáo đã đủ 18 tuổi và không yêu cầu có người đại diện hợp pháp. Do vậy Hội đồng xét xử không đưa bà G vào tham ra tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp cho bị cáo trong vụ án.

[3] Xét về tội danh của bị cáo thì thấy: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm và diễn biến của quá trình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trong 02 ngày 29/11/2020 và 04/12/2020, tại địa bàn xã T và Thị Trấn Nh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Nguỵ Thế B đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản được: 01 chiếc xe mô tô của anh Lại Văn Ph sinh năm 1982 ở thôn Đ, xã T, huyện Yên Dũng và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+ màu vàng đen của anh Nguyễn Đăng Ng sinh năm 1975 ở tổ dân phố 5, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng. Chiếc xe mô tô B trộm cắp được đem đến bán cho anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1977, ở đường Ph, thuộc tổ dân phố số 4, thị trấn Nh, huyện Yên Dũng được 10.000.000đ dùng chi tiêu cá nhân hết. Tổng giá trị tài sản B trộm cắp là 16.190.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng không có việc làm ổn định, ham chơi, lười lao động. Do không có tiền ăn tiêu, đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu của bản thân nên đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, có hành vi lén lút lấy trộm tài sản của bị hại. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân nơi bị cáo sống và quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo phạm tội chưa đủ 18 tuổi, do vậy cần áp dụng các quy định về xử lý đối với người chưa thành niện phạm tội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, khi biết hành vi bị phát hiện bị cáo đã ra đầu thú và có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo hai lần phạm tội, mỗi lần đều trên 2.000.000 đồng, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng năng “phạm tội từ hai lần trở lên” là phù hợp quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi đến khi xét xử bị cáo đã đủ 18 tuổi nhưng bị cáo không có công ăn việc làm ổn đinh, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

[8.1]. Anh Lại Văn Ph, anh Nguyễn Đăng Ng đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[8.2]. Anh Nguyễn Văn H yêu cầu bị cáo trả cho anh 10.000.000 đồng, bị cáo đồng ý. Do vậy, cần buộc bị cáo phải trả cho anh H số tiền 10.000.000 đồng.

[9]. Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ - đen, KBS: 98B2- 709.22 đã được trả lại cho anh Lại Văn Ph. Anh Ph nhận lại xe và không yêu cầu, đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10]. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+ màu vàng đen đã được trả lại cho anh Nguyễn Đăng Ng. Anh Ng nhận lại điện thoại và không yêu cầu, đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Đối với anh Nguyễn Văn H có hành vi mua xe mô tô do B trộm cắp. Tuy nhiên anh H không biết đó là tài sản do B phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngụy Thế B phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 90, Điều 91, Điều 38 Bộ luật hình sự.

3. Xử phạt: Bị cáo Ngụy Thế B 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo 4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự. Bị cáo phải trả cho anh Nguyễn Văn H số tiền 10.000.000 đồng.

5. Nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

6. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a,c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Ngụy Thế B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 500.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

7. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

8. Hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 30/2021/HS-ST ngày 14/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Dũng - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;