Bản án 30/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

B (tên gọi khác: Chu). Sinh năm 1985, tại tỉnh G. Nơi cư trú: Làng K’Dập, xã H’neng, huyện Đ, tỉnh G. Nghề nghiệp: Làm nông. Trình độ học vấn: 7/12. Dân tộc: Ja Rai. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Công giáo. Bị cáo là con ông BEH và bà PÕ. Bị cáo có vợ là chị GLIM và có 05 người con. Tiền án: 01 tiền án (bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xử phạt 12 tháng tù tại Bản án số 14/2016/HSST ngày 22/4/2016 về tội "Hủy hoại tài sản"). Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 22/9/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xử phạt 12 tháng tù tại Bản án số 14/2005/HSST ngày 14/10/2005 về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích). Ngày 07/01/2021, phạm tội "Trộm cắp tài sản" tại làng K' Dập, xã H'Neng, huyện Đ, tỉnh G và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh G khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Bị cáo bị bắt khẩn cấp và hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ từ ngày 07/01/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo B: Luật sư Huỳnh Văn Kiên - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh G. Có mặt.

- Bị hại: Bà Triệu Thị Th, sinh năm 1989. Trú tại: Làng K’Dập, xã H’neng, huyện Đ, tỉnh G. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Beh, sinh năm 1964. Trú tại: làng Bông La, xã Ia Băng, huyện Đ, tỉnh G. Có mặt.

- Người phiên dịch: Chị H’Súy. Trú tại: Làng Vê, xã Hà Bầu, huyện Đ, tỉnh G. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 07/01/2021, sau khi ngồi uống rượu một mình trên cầu thuộc làng K'Dập, xã H'Neng, huyện Đ, tỉnh G xong, B đi bộ về nhà. Khi đi ngang qua trước nhà chị Triệu Thị Th (sinh năm 1989, trú cùng Làng), quan sát thấy cửa cổng mở nên B đi vào trong sân rồi đi sang phía bên hông bên trái nhà chị Th nhìn qua cửa sổ (cửa sổ không đóng) thấy vợ chồng chị Th đang ngủ. B quan sát thấy có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy J6+ đang để sạc pin trên nóc tủ lạnh nên nảy sinh ý định trộm cắp. B dùng tay bẻ cong khung cửa sổ bằng sắt chui vào bên trong lấy trộm chiếc điện thoại thì bị chị Th phát hiện truy hô nên B bỏ chạy thoát theo lối cửa bếp ra phía sau vườn cà phê. B chạy đến sân bóng làng K'Dập giấu chiếc điện thoại vào bụi cỏ gần đó rồi đi bộ về nhà ngủ. Cùng ngày, chị Triệu Thị Th đã làm đơn tố giác hành vi trộm cắp của B đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đề nghị giải quyết theo quy định.

Ngày 07/01/2021, B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ ra lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp và B đã giao nộp 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy J6+. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trả lại cho chị Triệu Thị Th là chủ sở hữu theo quy định.

Về dân sự: Bị hại chị Triệu Thị Th đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại Kết luận định giá tài sản số 02 ngày 14/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ kết luận: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy J6+ có trị giá 2.200.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh G truy tố bị cáo B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với B và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo B;

Xử phạt bị cáo B từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo B thống nhất cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ về tội danh, điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo nhất thời phạm tội, hiện đang nuôi 05 con nhỏ, là lao động chính trong gia đình, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức án cho bị cáo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự dưới khung hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị cũng đủ tính chất răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát không đồng ý đối với đề nghị của người bào chữa áp dụng quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự dưới khung hình phạt cho bị cáo B, vì bị cáo B đã phạm tội xâm phạm quyền sở hữu 03 lần, bị cáo phải nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến gì đối với bản luận tội của Viện kiểm sát và bản luận cứ của người bào chữa.

Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 07/01/2021, tại nhà chị Triệu Thị Th thuộc làng K'Dập, xã H'Neng, huyện Đ, tỉnh G. B dùng tay bẻ cong khung cửa sổ chui vào trong nhà lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy J6+ của chị Th có trị giá 2.200.000 đồng.

Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nêu trên của bị cáo B là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, xâm phạm trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo đã chiếm đoạt tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy J6+ có trị giá 2.200.000 đồng, nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xử phạt 12 tháng tù tại Bản án số 14/2005/HSST ngày 14/10/2005 về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích).

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án tại Bản án số 14/2016/HSST ngày 22/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xử phạt 12 tháng tù về tội "Hủy hoại tài sản", chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác có trị giá 2.200.000 đồng nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "tái phạm" theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần phạm tội này của bị cáo gây thiệt hại không lớn; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt:

nh vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác như trên của bị cáo B là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự trị an xã hội. Tài sản mà bị cáo trộm cắp có trị giá 2.200.000 đồng, do vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy phải áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về vật chứng:

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy J6+ B đã giao nộp. Quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Triệu Thị Th, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trả lại cho chị Triệu Thị Th là chủ sở hữu là có cơ sở.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Triệu Thị Th đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Các vấn đề khác trong vụ án: Đối với việc Bản án số 14/2005/HSST ngày 14/10/2005 và Bản án số 14/2016/HSST ngày 22/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G đều xác định bị cáo tên là Chu và sinh năm 1979. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định bị cáo tên thật là B và sinh năm 1985, còn tên gọi Chu chỉ là do người trong làng thường gọi. Đồng thời, theo kết luận giám định số 216 ngày 12/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G xác định Chu và B là cùng một người nên ngày 17/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can số 01 đổi từ bị can Chu, sinh năm 1979 thành bị can B, sinh năm 1985 là có cơ sở.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo B;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, sau đó chuyển tạm giam (ngày 07/01/2021).

3. Về án phí:

Xử buộc bị cáo B phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/6/2021), bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;