Bản án 30/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2020/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST - HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn D - Sinh năm 1999; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản X, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn T và bà Lò Thị K; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 26/9/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 45 phút, ngày 25/9/2020 tổ công tác Công an xã C, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã C phát hiện Lò Văn D đang điều khiển xe mô tô BKS 26C1- 188.81 chở theo Lường Văn H (SN 2002, trú tại: Bản B, xã N, S), qua kiểm tra phát hiện và thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc của D 01 gói nilon bên trong chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng (D khai nhận là hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn D và thu giữ vật chứng là 03 viên nén màu hồng. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô BKS 26C1- 188.81 và 01 điện thoại di động.

Ngày 26/9/2020 tại Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định kết quả: 03 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 0,30 gam, trích 01 viên có tổng khối lượng 0,10 gam để giám định ký hiệu D, vật chứng còn lại 02 viên có tổng khối lượng 0,20 gam ký hiệu D1.

Kết luận giám định số 1526 ngày 01/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,30 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo Lò Văn D khai nhận: Tối ngày 25/9/2020 D rủ Lường Văn H đến nhà Lò Văn T1 ở bản L, C chơi và ăn tối tại đấy. Khoảng 21 giờ 30 cùng ngày khi mọi người vẫn đang ngồi ăn cơm thì D một mình đi ra ngoài đường mục đích để đi tìm mua ma túy sử dụng, khi đi cách nhà T1 khoảng 100 mét thì gặp một người đàn ông không quen biết đang đi bộ trên đường, D đi đến gần hỏi mua ma túy và được người đàn ông này bán cho 03 viên hồng phiến với giá 200.000đ. Mua bán xong D cất gói hồng phiến vào trong túi quần đang mặc rồi đi về nhà T1 tiếp tục ngồi uống rượu cùng mọi người, đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì D điều khiển xe chở H đi về, khi về đến địa phận bản P, C, Sông Mã thì bị phát hiện bắt quả tang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy và thu giữ vật chứng cùng tài sản đồ vật như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKSSM ngày 21 tháng 12 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lò Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Lò Văn D từ 18 – 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng 02 mảnh nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, trả lại 01 điện thoại di động cho bị cáo; Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo và tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 23 giờ 35 phút, ngày 25/9/2020, đối với Lò Văn D có hành vi cất giấu 03 viên nén màu hồng, D khai nhận là viên hồng phiến.

- Vật chứng bị thu giữ là 03 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1526 ngày 01/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “…Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,30 gam, loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã sử dụng ma tuý từ năm 2017 nên ngày 25/9/2020 có mua 03 viên hồng phiến ở khu vực bản L, xã C, Sông Mã mục đích để sử dụng. sau khi mua được đang trên đường đem về nhà cất giấu để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 25/9/2020 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,30 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo T1 khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo T1 người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa H, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo sống H cùng bố mẹ và không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

Đối với Lường Văn H là người đi cùng xe bị cáo khi bị cáo bị bắt quả tang, quá trình bị cáo mua bán, tàng trữ ma túy H không biết và không tham gia cùng, do vậy xác định H không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 26C1 – 188.81 thu giữ của bị cáo D, xác định được chiếc xe là tài sản H hợp pháp của gia đình bị cáo, khi bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy gia đình không ai hay biết nên ngày 30/11/2020 cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã trả chiếc xe cho ông Lò Văn T2 (là bố đẻ bị cáo) là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành, cùng 02 mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, đối với 01 điện thoại di động là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại.

[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn D 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án (05/01/2021).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,20 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 027787.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng + vàng, điện thoại đã vỡ màn hình.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;