Bản án 30/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 

BẢN ÁN 30/2021/HS-PT NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10/3/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2021/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2020/HSST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Các bị cáo có kháng cáo:

1/ NGÔ THỊ L, sinh năm 1985 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; Con ông Ngô Văn N và bà Mai Thị H; chồng D Đình N có 02 con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án , tiền sự: không Nhân thân: ngày 21/5/2019 bị Công an phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu xử phạt hành chính về hà nh vi đánh nhau với số tiền 750.000đ.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2/ NGUYỄN Q (T), sinh năm 1974 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 02/12; dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn N và bà Võ Thị C; Vợ Nguyễn Thị B; Bị cáo có 03 con nhỏ nhất sinh năm 2001; Tiền án: Không Tiền sự:

- Ngày 07/9/2012 bị Công an quận Thanh Khê xử phạt hành chính 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản. Chưa chấp hành.

- Ngày 07/02/2017 bị Công an phường Xuân Hà xử phạt 1.500.000đ về hành vi đánh bạc. Chưa chấp hành.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

3/ CHẾ NGỌC T, sinh năm 1986 tại Quảng Ngãi; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; Con ông Chế Quang T và bà Hồ Thị D; Vợ Trương Thị T; Bị cáo có 03 con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

4/ LÊ THỊ KIM H, sinh năm 1978 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; Con ông Lê Văn C và bà Nguyễn Thị H; Chồng Nguyễn Văn T; Bị cáo có 03 con nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

5/ NGUYỄN PHƯỚC T1, sinh năm 1988 tại Quảng Nam; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Phước V và bà Hoàng Thị L; Vợ Đỗ Thị L; Bị cáo có 02 con nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

6/ NGUYỄN THỊ H1, sinh năm 1982 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Văn X và bà Huỳnh Thị M; Chồng Đoàn Thanh T (chết); Bị cáo có 02 con nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

7/ ĐINH THỊ B (H), sinh năm 1970 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ x, phường x1, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; Con ông Đinh Đ và bà Nguyễn Thị N; Chồng Hồ Văn H; Bị cáo có 02 con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 06/8/2020, tại bờ kè đường Lê Đức Thọ, Công an phường Thọ Quang đã phát hiện 10 đối tượng gồm: Nguyễn Q; Chế Ngọc T; Trịnh Văn D; Nguyễn Phước T1; Lê Thị T4; Nguyễn Thị H1; Lê Thị Kim H; Huỳnh Thị T2; Ngô Thị L và Đinh Thị B có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài “xì lát”.

Qua điều tra xác định được như sau:

Khong 15 giờ 30 phút ngày 06/8/2020, trong lúc B, H, Q, L đang ngồi ăn trái cây tại bờ kè gần cầu Mân Quang thì L rủ cả nhóm đánh bài tiến lên ăn tiền cả nhóm đồng ý. Sau đó, H đi mua 02 bộ bài tây về rồi cả nhóm đánh bài tiến lên thắng thua bằng tiền. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, khi T đi ngang qua thấy có đánh bạc nên vào xem một lúc rồi nói H nghỉ để T vào đánh bạc thế chỗ H. Sau đó khi thấy D, T2, T1, H1 và T4 đến, T rủ cả nhóm chuyển sang đánh bạc dưới hình thức đánh “xì lát” để mọi người cùng chơi thì cả nhóm đồng ý. T xin cầm cái đầu tiên (lúc này L, Q và B không chơi). Sau đó, T đi vệ sinh thì Q là người cầm cái cho mọi người chơi ( H không chơi) đến khi bị Công an bắt quả tang.

Các đối tượng khai nhận số tiền mang theo và sử dụng vào mục đích đánh bạc như sau:

+ Nguyễn Q: Mang theo và sử dụng 4.200.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thắng 190.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 4.390.000 đồng.

+ Chế Ngọc T: Mang theo 1.600.000 đồng, sử dụng 600.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thắng 200.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 1.800.000 đồng.

+ Ngô Thị L: Mang theo 1.515.000 đng, sử dụng 700.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thua 175.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 1.315.000 đồng.

+ Lê Thị Kim H: Mang theo 18.400.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thắng 100.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 18.500.000 đồng.

+ Nguyễn Phước T1: Mang theo và sử dụng 1.330.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thua 200.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 1.130.000 đồng.

+ Nguyễn Thị H1: Mang theo 8.200.000 đồng, sử dụng 1.200.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thua 100.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 8.100.000 đồng.

+ Đinh Thị B: Mang theo 6.200.000 đồng, sử dụng 700.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thắng 150.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 6.350.000 đồng.

+ Huỳnh Thị T2: Mang theo 2.000.000 đồng, sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, không thắng, không thua. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 2.000.000 đồng.

+ Trịnh Văn D: Mang theo 2.640.000 đng, sử dụng 640.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, thua 180.000 đồng. Số tiền thực tế tạm giữ lúc bắt quả tang là: 2.460.000 đồng.

+ Lê Thị T4: Mang theo và sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc từ đầu đến khi bị phát hiện, đã thua hết 200.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền thu giữ của các con bạc là 46.085.000đ. Tổng số tiền mà các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc là: 12.310.000đ (Trong đó: 600.000đ trên chiếu bạc và 11.710.000đ trên người các con bạc nhằm mục đích đánh bạc (Q 4.390.000đ; T 800.000đ; L 700.000đ; H 600.000đ; T1 1.330.000đ; H1 1.200.000đ; B 850.000đ; T2 1.000.000đ; D 640.000đ; T4 200.000đ).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2020/HSST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1, Đinh Thị B, Huỳnh Thị T2, Trịnh Văn D và Lê Thị T4 phạm tội: “Đánh bạc”.

1/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Ngô Thị L 12 (Mười hai) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

2/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Q 09 (Chín) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án

3/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Chế Ngọc T 09 (Chín) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

4/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Thị Kim H 09 (Chín) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

5/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Phước T1 06 (Sáu) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

6/ Căn c: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thị H1 06 (Sáu) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

7/ Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đinh Thị B 06 (Sáu) tháng tù, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Thị T2, Trịnh Văn D, Lê Thị T4 nhưng các bị cáo này không kháng cáo, không bị kháng nghị, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo Bản án.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 bị cáo Ngô Thị L có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, bản thân đang nuôi con nhỏ, chồng đi làm đêm không ai chăm sóc con cái, xin được hưởng án treo.

Ngày 08 tháng 12 năm 2020 bị cáo Nguyễn Q có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính, bản thân bị bệnh dạ dày nặng, xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 bị cáo Chế Ngọc T có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ già yếu, bản thân đang nuôi con nhỏ 36 tháng tuổi, lao động chính trong gia đình, xin được hưởng án treo.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 bị cáo Lê Thị Kim H có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính, xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 bị cáo Nguyễn Phước T1 có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, lần đầu phạm tội, hoàn cảnh khó khăn, xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 bị cáo Nguyễn Thị H1 có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, chồng đã mất, đang nuôi hai con nhỏ, xin được hưởng án treo.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 bị cáo Đinh Thị B có đơn kháng cáo có nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, gia đình có hoàn c ảnh khó khăn, bản thân có nhiều đóng góp trong công tác mặt trận tại địa pH, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục: Đơn kháng cáo của các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung kháng cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2020/HSST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, bị cáo L là người đóng vai trò chính khi khởi xướng việc đánh bạc, bị cáo Q là người thực hành tích cực tham gia chơi bạc từ đầu đến cuối; Cả hai bị cáo đều có nhân thân xấu, đã từng bị xử lý vi phạm hành chính; Bị cáo T là người khởi xướng và cầm cái đánh Xì lát. Do đó đ ối với các bị cáo phải xử phạt nghiêm, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe với các bị cáo. Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo, xử phạt bị cáo L mức án 12 tháng tù, bị cáo Q và T mỗi bị cáo 09 tháng tù là phù hợp. Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với ba bị cáo này.

Đối với các bị cáo Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B, xét trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình, có hoàn c ảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, số tiền các bị cáo dùng để tham gia đánh bạc ít. Vì vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà cho cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng phù hợp, nên đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho các bị cáo được hưởng án treo.

Các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã kết luận; giữ nguyên kháng cáo, xin HĐXX xem xét nhân thân, hoàn cảnh gia đình; giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong khoảng thời gian từ 15 giờ 30 phút đến 17 giờ 15 phút ngày 06/8/2020, tại khu vực bờ kè đường Lê Đức Thọ thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng, Cơ quan CSĐT – Công an quận Sơn Trà phát hiện các bị cáo Ngô Thị L; Nguyễn Q; Chế Ngọc T; Trịnh Văn D; Nguyễn Phước T1; Lê Thị T4; Nguyễn Thị H1; Lê Thị Kim H; Huỳnh Thị T2 và Đinh Thị B có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài “ tiến lên” và “xì lát”, số tiền thu giữ của các con bạc là 46.645.000đ, số tiền các con bạc sử dụn g vào mục đích đánh bạc là 12.310.000đ.

Với hành vi trên, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến T xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa pH.

Trong vụ án này, bị cáo L là người khởi xướng, các bị cáo Q, T và H là những người tham gia rất tích cực. Ngoài ra, bị cáo L có nhân thân xấu, năm 2019 bị Công an phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu xử lý hành chính về hành vi đánh nhau; bị cáo Q có 02 tiền sự: năm 2012 bị Công an quận Thanh Khê xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, năm 2017 bị Công an phường Xuân Hà xử lý hành chính về hành vi đánh bạc , bị cáo chưa nộp phạt ; nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo T là người khởi xướng và cầm cái đánh Xì lát. Do đó đối với các bị cáo phải xử phạt nghiêm, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe với các bị cáo. Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo, xử phạt bị cáo L mức án 12 tháng tù, bị cáo Q và T mỗi bị cáo 09 tháng tù là phù hợp. Do đó HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với ba bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T.

Đối với bị cáo Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B tham gia đánh bạc dưới hình thức đánh bài xì lát khi được T rủ rê . Tuy nhiên, xét các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, là lao động chính trong gia đình , đang nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa p hương xác nhận, số tiền các bị cáo dùng để tham gia đánh bạc ít, các bị cáo không phải là người khởi xướng, tích cực, không tham gia từ đầu đến cuối. HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà cho cải tạo, giáo dục tại địa p hương cũng có tác dụng răn đe các bị cáo, cũng như phòng ngừa chung cho xã hội . Do đó HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho các bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của đại diện VKS tại phiên toà là phù hợp.

[2]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3]. Các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Các bị cáo Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Căn cứ: Khon 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Ngô Thị L 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Q 09 (Chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án .

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Chế Ngọc T 09 (Chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời gian thụ hình tính từ bắt giam thi hành án.

2. Căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 355 và Điều 35 7 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B, sửa bản án sơ thẩm.

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 ; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Thị Kim H 09 (Chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm .

Tuyên giao bị cáo Lê Thị Kim H về Uỷ ban nhân dân phường x1, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019 .

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Phước T1 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm .

Tuyên giao bị cáo Nguyễn Phước T1 về Uỷ ban nhân dân phường x1, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thị H1 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm .

Tuyên giao bị cáo Nguyễn Thị H1 về Uỷ ban nhân dân phường x1, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đinh Thị B 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Tuyên giao bị cáo Đinh Thị B về Uỷ ban nhân dân phường x1, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019 .

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Toà án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo .

2. Về án phí: Buộc các bị cáo Ngô Thị L, Nguyễn Q, Chế Ngọc T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm; Các bị cáo Lê Thị Kim H, Nguyễn Phước T1, Nguyễn Thị H1 và Đinh Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

448
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:30/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;