Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 16/2021/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 01 năm 2021, về việc Tranh chấp Ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 07 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hà Mộng N, sinh năm 1986, vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Hòa A, sinh năm 1985, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Số 664/1, ấp M, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo Đơn khởi kiện ngày 14/01/2021, các biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 02/3/2021, ngày 07/4/2021 và các tài liệu, chứng cứ khác trong quá trình giải quyết.

Về hôn nhân: Bà Hà Mộng N và ông Lê Hòa A quen biết và có tình cảm với nhau nên được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới vào năm 2012. Sau khi tổ chức lễ cưới, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 146/2012, ngày 20/7/2012.

Sau khi kết hôn, vợ chồng có khoảng thời gian chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, đến tháng 11/2020 giữa hai vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, nên tình cảm vợ chồng không còn như trước. Nhận thấy đời sống hôn nhân giữa bà N và ông A không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N có nguyện vọng được ly hôn với ông A.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có 01 người con chung là Lê Quốc T, sinh ngày 30/12/2014, hiện nay đang sống với vợ chồng.

Về tài sản chung: Vợ chồng có tạo lập được tài sản chung, nhưng đã tự thỏa thuận.

Về nợ chung: Vợ chồng không thiếu nợ ai và cũng không có ai thiếu nợ vợ chồng.

*Nay bà N yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn với ông Lê Hòa A.

- Về con chung: Bà đồng ý giao cháu Lê Quốc T, sinh ngày 30/12/2014, cho ông A trực tiếp nuôi dưỡng. Bà không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Vợ chồng đã tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Bị đơn ông Lê Hòa A có ý kiến như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông không đồng ý ly hôn, vì thương con còn nhỏ, nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông cũng đồng ý.

- Về con chung: Ông yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Lê Quốc T, sinh ngày 30/12/2014 đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng đã tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại phiên tòa, Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách cho rằng việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với người tham gia tố tụng, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn vắng mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút lại đơn khởi kiện, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Hòa A, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vắng mặt không rõ lý do; Nguyên đơn bà Hà Mộng N vắng mặt, nhưng có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, cho nên, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Mộng N và ông Lê Hòa A tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn và tuân thủ quy định tại các điều 8 và 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên quan hệ hôn nhân của ông, bà là hợp pháp.

[3] Xét về tình trạng hôn nhân, thấy rằng: Quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên. Trong thời kỳ hôn nhân, bà N và ông A có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không còn thương yêu, chăm sóc lẫn nhau, do không còn tình cảm, không hạnh phúc, nên đã sống ly thân từ tháng 11/2020, đến thời điểm này, cả bà N và ông A cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng mà vẫn tiếp tục sống ly thân và bỏ mặc nhau. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N.

[4] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà N và ông A có một người con chung là cháu Lê Quốc T, sinh ngày 30/12/2014, hiện đang sống chung với gia đình.

[5] Theo quy định tại khoản 1 Điều 71, khoản 1 và khoản 2 Điều 81, các điều 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: Cha và mẹ đều có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên. Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Nếu không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con thì căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, Tòa án quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi dưỡng cũng có quyền thăm nom con sau khi ly hôn.

[6] Xét thấy, các đương đều thống nhất ý kiến giao con chung cho ông A trực tiếp nuôi dưỡng, người con chung này từ nhỏ đã được người cha chăm sóc nuôi dưỡng tốt, cho nên phải giao cho người cha trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý, tránh thay đổi môi trường sống ổn định của trẻ nhỏ. Nếu sau này người cha nuôi dưỡng không tốt thì người mẹ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Lê Quốc T, sinh ngày 30/12/2014 cho ông A trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Dành quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục người con chung này cho bà N, không ai được ngăn cản.

[7] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của ông A đối với bà N.

[8] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bà N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

[10] Đề nghị của Kiểm sát viên về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, theo như nhận định và phân tích nêu trên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1) Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Mộng N được ly hôn với ông Lê Hòa A.

2) Về con chung: Giao cho ông A được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Quốc T, sinh ngày 30/12/2014, đến đủ 18 tuổi; Bà N được quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục người con chung này, không ai được ngăn cản.

3) Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của ông A đối với bà N.

4) Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5) Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008767, ngày 14/01/2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà N đã nộp xong án phí sơ thẩm.

6) Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn này tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

7) Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;