Bản án 30/2020/HSST ngày 08/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 30/2020/HSST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn thụ lý số: 81/2020/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

- Đặng Minh N ; giới tính: Nam, sinh năm 1988 tại Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: 244 Điện Biên Phủ, Phường 17, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Rửa xe; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông: Đặng Minh C (sinh năm 1963) và bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1965); Hoàn cảnh gia đình: đã có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc S, sinh năm 1991; có 02 con ; con lớn nhất sinh năm 2012; con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự : không. Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 25/02/2020 đến ngày 28/02/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Bị hại :

- Ông Hồ Hoàng H, sinh năm 1990; Trú tại: 59B Nguyễn Thị Tràng, Phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đặng Minh T, sinh năm 1990; Trú tại: 244 Điện Biên Phủ, Phường 17, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h ngày 12/01/2020 anh Hồ Hoàng H, sinh 1990, ngụ 59B Nguyễn Thị Tràng, phường Hiệp Thành, Quận 12 đến tiệm rửa xe Phong Tâm, địa chỉ: 007 Lô C Chung cư Khang Gia, Phường 14, quận Gò Vấp để rửa xe ô tô, anh H có để 01 máy tính xách tay hiệu Macbook Pro trên xe rồi đi công việc. Khoảng 01 giờ sau anh H quay lại lấy xe thì phát hiện bị mất trộm máy tính hiệu Macbook Pro nói trên. Sau đó, anh H đến Công an Phường 14, quận Gò Vấp trình báo sự việc.

Ngày 25/02/2020, Đặng Minh N đến Công an quận Gò Vấp đầu thú. N khai nhận ngày 12/01/2020, sau khi anh Ngô Ngọc Kim T rửa xe ô tô xong thì có nhờ N điều khiển xe lùi ra để có khoảng trống đi lại trong tiệm. Qúa trình N điều khiển xe thì phát hiện máy tính xách tay của anh H để trong giỏ xách ở băng ghế sau nên nảy sinh ý định chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. N xuống xe mở cửa sau lén lút lấy trộm máy tính xách tay của anh H rồi giấu ở cạnh bồn đựng nước trong tiệm. Khoảng 15 phút sau N đem máy tính xách tay của anh H ra khu cầu Bình lợi, quận Bình Thạnh thế chấp cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0932025155 số tiền 4.500.000 đồng, số tiền này N đã tiêu xài hết. Sau đó, N nhờ Đặng Minh T, sinh năm 1990 đi tìm người đàn ông trên chuộc lại máy tính và giao nộp cho Công an.

Vật chứng thu giữ:

01 máy tính xách tay hiệu Macbook Pro, Model: A1990, Serial: C02YM4MHLVCH. Tại kết luận định giá tài sản số 36/KL ngày 14/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - UBND quận Gò Vấp kết luận: giá trị máy tính xách tay hiệu Macbook Pro, model A1900, số serial C02YM4MHLVCH, đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 12/01/2020 là 32.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho anh Hồ Hoàng H, anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Tại cơ quan điều tra Đặng Minh N đã thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 02/Ctr-VKS, ngày 29/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Đặng Minh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đặng Minh N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Quyết định đề nghị truy tố và Quyết định truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, những tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Tòa án áp dụng khỏan 1 Điều 173, điểm i, s khỏan 1, khỏan 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Đặng Minh N mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm .

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với Quyết định đề nghị truy tố của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Gía trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 32.000.000 đồng. Do đó, xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Đặng Minh N đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo cố ý lén lút lấy trộm tài sản của người bị hại, điều đó cho thấy bị cáo rất xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội nên cần thiết phải xử lý nghiêm.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét một số tình tiết: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra cũng như diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi biết mình phạm tội bị cáo ra đầu thú tại cơ quan Công an, gia đình bị cáo hiện nay có hoàn cảnh khó khăn, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại nên áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian được tại ngoại bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Qua đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, nghĩ không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách, tạo điều kiện cho các bị cáo lao động, cải tạo sống có ích cho xã hội [5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với người đàn ông nhận thế chấp chiếc máy tính có số điện thoại 0932025155. Cơ quan điều tra đã gửi công văn cho Tổng công ty viễn thông để xác Minh nhân thân lai lịch đến nay chưa nhận được phản hồi, khi nào xác định được sẽ điều tra xác minh và xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại anh Hồ Hoàng H vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện anh H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì nên Tòa không xem xét.

Đối với anh Đặng Minh T là em của bị cáo là người bỏ ra số tiền 10.000.000 đồng để chuộc chiếc máy tính từ người đàn ông không rõ lai lịch. Anh T xác định cho luôn bị cáo không yêu cầu bị cáo trả lại nên Tòa không xem xét.

Về xử lý vật chứng:

01 máy tính xách tay hiệu Macbook Pro, Model: A1990, Serial: C02YM4MHLVCH. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho anh Hồ Hoàng H. Xét, việc trả lại tài sản trên là hợp lệ nên không xem xét giải quyết lại Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

-Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Minh N 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân Phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt, hợp lệ bản án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2020/HSST ngày 08/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;