TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 30/2020/HSPT NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 31 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Duy T do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2020/HSST ngày 29/04/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
- Bị cáo : Nguyễn Duy T sinh năm 1975 tại huyện P, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: thôn Đ, xã T1, huyện H, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: không biết chữ; con ông Nguyễn Duy T2 và bà Nguyễn Thị Đ1; vợ là: Lê Thị T3; có 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại có kháng cáo: Anh Trần Hữu T4, sinh năm 1979; địa chỉ: thôn Đ, xã T1, huyện H, tỉnh Thái Bình (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 26/3/2019, anh Trần Hữu T4 đi xe máy đi qua nhà Nguyễn Duy T, thấy T đang ngồi trước cửa nhà, do hai bên có mâu thuẫn từ trước nên anh T4 và T cãi chửi nhau; T xông đến trước mặt anh T4, dùng tay phải đấm 01 cái vào ngực anh T4; anh T4 lùi lại dùng tay đấm 02 cái vào vùng mặt T làm T bị chảy máu mũi và dùng chân đá 02 cái vào người T. T rút dây thắt lưng đang đeo (dài 122cm, phần dây bằng chất liệu giả da, màu nâu, chỗ rộng nhất 3,5cm, dày 0,4cm; phần khóa thắt lưng bằng kim loại màu vàng hình móng ngựa, chiều dài nhất 05cm, rộng nhất 5,5cm, dày 0,6cm), tay phải cầm ở giữa dây thắt lưng, vụt anh T4 theo hướng từ trên xuống dưới, anh T4 giơ hai tay lên đỡ, phần khóa dây lưng trúng vào mặt sau cẳng tay phải anh T4. Thấy vậy, cháu Nguyễn Lê Ngọc B, sinh năm 2011 là con của T chạy vào trong nhà gọi mẹ là chị Lê Thị T3, bảo “T4 đánh chết bố rồi”, chị T3 chạy ra gốc cây lộc vừng ở trước cửa nhà lấy 01 đoạn tuýp bằng kim loại hình tròn (dài khoảng 80cm, đường kính khoảng 2,1cm) đi ra chỗ anh T4. Hai bên cãi, chửi nhau. Anh T4 túm cổ áo, dùng tay đấm vào gáy và dùng chân đá vào người chị T3, chị T3 dùng tuýp vụt 01 cái trúng vào chân trái anh T4. Thấy vậy, T đến giật lấy đoạn tuýp từ tay chị T3 rồi cầm ở tay phải, đứng đối diện, cách anh T4 khoảng 01 mét, T giơ lên vụt anh T4 01 cái theo hướng từ trên xuống dưới, anh T4 giơ tay trái lên đỡ nên trúng vào mặt sau cẳng - khuỷu tay trái; được mọi người can ngăn, hai bên không đánh cãi nhau nữa mà đi về nhà. Anh T4 phải đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Hưng Hà từ ngày 26/3/2019 đến 05/4/2019.
Kết luận giám định số 3808/C09/TT1 ngày 05/8/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Anh Trần Hữu T4 bị chấn thương phần mềm vùng ngực, tay trái và tay phải, đã được điều trị. Hiện tại để lại: Sẹo 1/3 trên mặt sau cẳng – khuỷu tay trái không ảnh hưởng chức năng và thẩm mỹ; sẹo 1/3 trên mặt sau cẳng tay phải không ảnh hưởng chức năng và thẩm mỹ. Xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của các thương tích như sau: Sẹo 1/3 trên mặt sau cẳng – khuỷu tay trái 01%; sẹo 1/3 trên mặt sau cẳng tay phải 01%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh T4 tại thời điểm giám định là 02%. Cơ chế hình thành thương tích: thương tích tại vùng tay phải và tay trái của anh T4 do vật tày gây nên.
Anh Trần Hữu T4 yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh tiền viện phí, tiền thuốc, thu nhập thực tế bị mất trong 11 ngày nằm viện với tổng số tiền là 3.466.000 đồng và bồi thường về tổn thất tinh thần.
Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2020/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 36 Bộ luật hình sự.
Tuyên phạt: Nguyễn Duy T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã T1, huyện H, tỉnh Thái Bình nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án.
Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Duy T.
Giao bị cáo Nguyễn Duy T cho Ủy ban nhân dân xã T1, huyện H, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 357, 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Duy T phải bồi thường thiệt hại cho anh Trần Hữu T4 số tiền 3.466.000 đồng. Đối trừ số tiền 3.500.000 đồng bị cáo đã nộp để bồi thường thiệt hại cho bị hại theo biên lai thu số 0005808 ngày 12/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, hoàn trả lại bị cáo số tiền 34.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất, quyền thi hành án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 07 tháng 5 năm 2020 bị hại là anh Trần Hữu T4 có đơn kháng cáo cho rằng mức hình phạt mà Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà xử phạt bị cáo là quá nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử tăng mức hình phạt đối với bị cáo và bồi thường tổn thất tinh thần cho anh.
Tại phiên tòa phúc thẩm, anh T4 vẫn giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Tòa án tăng hình phạt đối với bị cáo là 01 năm cải tạo không giam giữ và buộc bị cáo phải bù đắp tổn thất tinh thần cho anh theo quy định của pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 356, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị hại – yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo; chấp nhận yêu cầu của bị hại - buộc bị cáo phải bồi thường để bù đắp tổn thất về tinh thần cho bị hại là 1.490.000 đồng.
Phần tranh luận, bị cáo đồng ý với quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo chấp nhận bù đắp tổn thất về tinh thần cho bị hại 1.490.000 đồng; bị hại đồng ý và nhận của bị cáo 1.490.000 đồng nhưng vẫn đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đã nhận thấy sai lầm của mình, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, cho bị cáo cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để xác định: Vợ chồng anh Trần Hữu T4 và vợ chồng bị cáo Nguyễn Duy T ở sát nhà nhau và cùng buôn bán thức ăn gia súc, trong quá trình làm ăn có xảy ra mâu thuẫn. Vào khoảng 17 giờ 15 phút ngày 26/3/2019, anh Trần Hữu T4 đi xe máy qua cửa nhà T, anh T4 nhìn T và có lời lẽ xúc phạm T, gây sự với T, hai bên cãi nhau; anh T4 đã xông vào, dùng tay đấm vào mặt, vào cằm T làm T bị chảy máu miệng, máu mũi và ngã ngửa ra đường. T đứng dậy và rút dây thắt lưng giả da dài 122cm, vụt phần khóa bằng kim loại theo hướng từ trên xuống dưới vào mặt sau cẳng tay phải và dùng đoạn tuýp bằng kim loại hình tròn dài khoảng 80cm, đường kính khoảng 2,1cm vụt một cái theo hướng từ trên xuống dưới vào mặt sau cẳng tay trái của anh T4. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh T4 tại thời điểm giám định là 02%. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng tại địa phương. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; tự nguyện nộp toàn bộ tiền bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và bị hại cũng có một phần lỗi nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo bản thân. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; kháng cáo của bị hại – yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo là không có căn cứ.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T đã tự nguyện bồi thường thêm 1.490.000 đồng để bù đắp tổn thất về tinh thần cho anh T4; anh T4 đã chấp nhận và nhận đủ số tiền 1.490.000 đồng. Sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật dân sự, được Hội đồng xét xử công nhận.
[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt và sửa bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, công nhận sự thỏa thuận về việc bù đắp tổn thất về tinh thần giữa bị cáo và bị hại.
[5] Về án phí: Bị hại kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại là anh Trần Hữu T4. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 30/2020/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình về phần hình phạt và trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Nguyễn Duy T: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 36 Bộ luật hình sự; phạt bị cáo Nguyễn Duy T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã T1, huyện H, tỉnh Thái Bình nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án; không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Duy T.
Giao bị cáo Nguyễn Duy T cho Ủy ban nhân dân xã T1, huyện H, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
2. Sửa bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Duy T và anh Trần Hữu T4 như sau: Bị cáo T bồi thường thêm cho anh T4 khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần là 1.490.000 đồng (Một triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng); anh T4 đã nhận của bị cáo T 1.490.000 đồng (Một triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 6, điểm đ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: anh Trần Hữu T4 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 31/7/2020.
Bản án 30/2020/HSPT ngày 31/07/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 30/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về