Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 30/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2020/TLST - HNGĐ, ngày 09 tháng 01 năm 2020 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 28 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc H - sinh năm: 1988; Có mặt.

Địa chỉ: số 99/42, ấp Phú H , xã Hưng Khánh Tr B, huyện Chợ L , tỉnh Bến Tre. Có mặt.

Bị đơn: Anh Trần Hoàng Ch (tên gọi khác Linh) - Sinh năm: 1981. Vắng mặt.

Địa chỉ: ấp Kinh Tr, xã Hòa A, huyện Giồng R, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, Nguyên đơn - chị Lê Thị Ngọc H trình bày: Chị và anh Trần Hoàng Ch tự tìm hiểu nhau khoảng 02 năm thì được gia đình tổ chức lễ cưới vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hòa An, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Sau khi cưới, anh chị chung sống hạnh phúc khoảng 06 năm thì đã phát sinh mâu thuẫn do không phù hợp tính ý, vợ chồng thường cãi nhau, không có sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau. Đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Nay chị H yêu cầu ly hôn với anh Ch.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Lê Phượng H1 - sinh ngày:

25/8/2009 và Trần Lê Phương Đ - sinh ngày: 05/12/2011. Chị H đang nuôi dưỡng hai con. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con, không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Trần Hoàng Ch để anh trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H cũng như tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh Ch không nộp bản tự khai cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia giải quyết vụ kiện.

Tại bản tự khai, cháu H1 và cháu Đ có nguyện vọng tiếp tục chung sống với chị H.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử tiến hành nghị án. Đối với những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Về nội dung: Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh Ch đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H, về con chung đề nghị áp dụng Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình xử giao cháu H1 và cháu Đ cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, do chị H không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản và nợ chung: Không có, đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị H khởi kiện xin ly hôn, nuôi con chung với anh Ch. Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình - xin ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn có nơi cư trú tại xã Hòa An, huyện Giồng Riềng nên theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Ch với tư cách là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt tại phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc H và anh Trần Hoàng Ch cưới nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Hòa An, huyện Giồng Riềng chứng nhận kết hôn nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Chị H xác định cuộc sống vợ chồng không H phúc, thường xuyên mâu thuẫn không phù hợp tính ý, không có sự tin tưởng, quan tâm chăm sóc nhau. Chị và anh Ch nhiều tự hòa giải nhưng không đạt kết quả. Từ đó, vợ chồng không còn chung sống từ năm 2015 cho đến nay.

Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.....”. Nhưng anh chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, vợ chồng không sống chung trong một khoảng thời gian dài, không quan tâm, chăm sóc nhau dẫn đến tình trạng hôn nhân của anh chị ngày càng mâu thuẫn trầm trọng.

Tòa án đã tiến hành xác minh chính quyền địa phương nơi anh Ch cư trú, Đại diện chính quyền địa phương không nhận được tin báo hoặc yêu cầu giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng anh Ch. Anh Ch vẫn còn thường xuyên về thăm và liên lạc với gia đình.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Ch không trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H, anh không đưa ra được biện pháp giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Chị H vẫn cương quyết ly hôn nên có đủ căn cứ để xác định mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh Ch.

[2.2] Về con chung: Căn cứ vào lời trình bày của chị H và Giấy khai sinh có cơ sở xác định trong quá trình chung sống chị H và anh Ch có 02 con chung tên Trần Lê Phượng H1 - sinh ngày: 25/8/2009 và Trần Lê Phương Đ - sinh ngày: 05/12/2011. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con cho đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy cháu H1 và cháu Đ hiện do chị H trực tiếp nuôi dưỡng, các cháu đều trên 7 tuổi và có nguyện vọng tiếp tục chung sống cùng với mẹ, các cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần. Sau khi xem xét quyền lợi mọi mặt của con. Căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình xử giao 02 cháu H1 và Đ cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng.

Do chị H không yêu cầu anh Ch cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Ch được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[2.3] Về tài sản và nợ chung: Không có, đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí;

Án phí ly hôn sơ thẩm chị H phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị H đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0008098 ngày 09/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lê Thị Ngọc H được ly hôn với anh Trần Hoàng Ch.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Trần Lê Phượng H1 - sinh ngày: 25/8/2009 và Trần Lê Phương Đ - sinh ngày: 05/12/2011 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu.

Anh Ch được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

3. Về án phí:

Án phí ly hôn sơ thẩm chị H phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị H đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0008098 ngày 09/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 05/5/2020. Chị H được tính kể từ ngày tuyên án, anh Ch được tính kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:30/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;