Bản án 30/2019/HS-ST ngày 04/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 7 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thị Minh Q (N) - sinh năm 1988 tại D - Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: thôn M - xã V - huyện T - tỉnh H; Chỗ ở hiện nay: thôn 4 - xã P - huyện D - Khánh Hòa; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Minh A (1954) và bà Nguyễn Thị H (1965); Có chồng là Nguyễn Văn B (1981) và có 02 con (lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền sự, tiền án: không; Bị cáo tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: bà Nguyễn Thị S - sinh năm 1960

Trú tại: 264 đường T - phường P - tp. N - Khánh Hòa; Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

Nguyễn Đình T - sinh năm 1972

Nguyễn Thị H - sinh năm 1966

Lê Thị Minh L - sinh năm 1991

Bùi Tuấn Th - sinh năm 1983

Tất cả đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 7/2017, Lê Thị Minh Q mua thửa đất số 1313, tờ bản đồ số 6, diện tích 113m2 (thuộc thôn 4 - xã P - huyện D - Khánh Hòa) của ông Lý B (sinh năm 1928, trú tại: phường P - tp. N) xây nhà, sinh sống tại đây và được Ủy ban nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02418 ngày 25/8/2017 mang tên Lê Thị Minh Q.

Tháng 12/2017, Q đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 1313, tờ bản đồ số 6, diện tích 113m2 cho anh Bùi Tuấn Th (sinh năm 1983, trú: phường L - tp. H) với giá 500.000.000đ. Ủy ban nhân dân huyện D chỉnh lý chuyển nhượng quyền sử dụng đât, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho anh Bùi Tuấn Th vào ngày 26/12/2017. Sau đó, Q thuê lại ngôi nhà này của Th để ở và hàng tháng trả tiền thuê nhà cho Th.

Vào ngày 15/02/2018, bà Nguyễn Thị S đến gặp Q hỏi mua nhà và đất Q đang ở. Vì đang cần tiền trả nợ nên Q nảy sinh ý định lừa bán thửa đất và nhà đang thuê của anh Th cho bà S với giá 600.000.000đ. Để bà S tin tưởng, Q đưa một bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lê Thị Minh Q khi chưa chỉnh lý cho anh Bùi Tuấn Th cho bà S. Q nói bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng của Q đang giữ ở tp. H, nếu bà S đồng ý mua thì đặt cọc trước cho Q 300.000.000đ đến tháng 6/2018, Q sẽ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà cho bà S, bà S đồng ý. Bà S thỏa thuận với Q sẽ đặt cọc trước 110.000.000đ và yêu cầu Q chuyển đồ ra khỏi nhà để bà S vào ở ngay trong ngày 15/02/2018, Q đồng ý và lập một hợp đồng đặt cọc để cả hai ký vào. Cùng ký vào hợp đồng đặt cọc có ông Nguyễn Thành T (em ruột bà S) và bà Nguyễn Thị H (mẹ ruột Q) là người làm chứng. Sau đó vào các ngày 21/02/2018 và 22/02/2018, Q cùng em gái là Lê Thị Minh L đến nhà bà S (264 đường T - tp. N) để lấy tiếp số tiền lần lượt là 70.000.000đ và 120.000.000đ. Ngày 28/02/2018, Q một mình xuống nhà bà S để lấy 100.000.000đ. Tổng số tiền mà Q đã gian dối chiếm đoạt của bà S là 400.000.000đ. Đến ngày 17/9/2018, bà S phát hiện hành vi lừa đảo của Q nên làm đơn tố cáo đến Cơ quan cảnh sát điều tra.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện D, Lê Thị Minh Q đã thừa nhận hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 26/CT-VKSDK ngày 22/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo Lê Thị Minh Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Q từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Về trách nhiệm dân sự: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo trả lại cho bà S 400.000.000đ. Về án phí: bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, người làm chứng vắng mặt. Tuy nhiên, hồ sơ đã thể hiện rõ lời khai của người làm chứng. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với người này.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định do cần tiền để tiêu xài cá nhân và để trả nợ, Q đã nhiều lần (từ ngày 15/02 đến 28/02/2018) có hành vi lừa dối chiếm đoạt của bà S 400.000.000đ. Hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo Q với tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo Q đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với thửa đất số 1313, tờ bản đồ số 6, diện tích 113m2 cho anh Bùi Tuấn Th và anh Th đã được Ủy ban nhân dân huyện D chỉnh lý sang tên nhưng bị cáo đã sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất photo làm cho bà S tin là tài sản này vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bị cáo mà nhiều lần đưa tiền cho bị cáo nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân chưa có tiền sự, tiền án nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự : Bị cáo chiếm đoạt của bà S 400.000.000đ và chưa trả lại cho bà S. Tại phiên tòa hôm nay, bà S yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền này nên cần buộc bị cáo trả lại số tiền này cho bà S.

[6] Về án phí : Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Thị Minh Q (N).

Xử phạtbị cáo Lê Thị Minh Q (N) 08 (tám) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Lê Thị Minh Q (N) trả lại cho bị hại Nguyễn Thị S 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng).

Về án phí:

Bị cáo Lê Thị Minh Q (N) nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Án phí hình sự sơ thẩm và 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2019/HS-ST ngày 04/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:30/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;