Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 03/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 03 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 142/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/8/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 17/9/2019, đối với các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Đinh K, sinh năm 1991.

2. Bị đơn: Anh Lục Tấn H, sinh năm 1992.

Cùng địa chỉ: Khu phố XA 2, thị trấn CL, huyện BB, Bình Thuận.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1.Theo đơn khởi kiện ly hôn và lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay, chò Nguyễn Thị Đinh K trình baøy:

Về hôn nhân: Chị K và anh H quen biết, tìm hiểu nhau khoảng 08 tháng thì quyết định sống chung với nhau. Chị K và anh H tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn CL, huyện Bắc Bình vào năm 2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng thuê nhà tại khu phố Xuân Hội, thị trấn CL sinh sống. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2018, anh H bắt đầu đam mê cờ bạc nên không quan tâm đến gia đình và thiếu trách nhiệm với vợ con. Sau nhiều lần khuyên ngăn không được nên chị K cùng con thuê nhà tại khu phố XA 2 sinh sống, anh H biết chỗ ở của chị K nhưng không có ý kiến gì. Nay, do vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên chị K yêu cầu giải quyết cho ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị K và anh H có 01 con chung tên Lục Đình Mỹ D, sinh ngày 18/12/2015. Chị K yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Đối với bị đơn- anh Lục Tấn H, Tòa án đã nhiều lần tống đạt và niêm yết hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh H cố tình không đến nên không thể lấy lời khai và hòa giải được.

3. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 28, diểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, đề nghị tuyên xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị Đinh K ly hôn với anh Lục Tấn H; giao con chung cho chị K tiếp tục nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Đinh K có đơn đề nghị giải quyết việc hôn nhân giữa chị K và anh Lục Tấn H, theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập, yêu cầu anh Lục Tấn H đến Tòa để lấy lời khai, hòa giải và thực hiện các thủ tục tố tụng khác nhưng anh H không chấp hành. Do đó, Tòa án không thể tiến hành hòa giải theo thủ tục chung và quyết định đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn Lục Tấn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Thị Đinh K vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh Lục Tấn H. Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị Nguyễn Thị Đinh K và anh Lục Tấn H tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn CL nên hôn nhân giữa chị K và anh H là hôn nhân hợp pháp. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị K đã thuê nhà tại khu phố XA 2, thị trấn CL sinh sống riêng, anh H biết việc này nhưng vẫn bỏ mặt, không có biện pháp để hàn gắn gia đình, nên chị K thấy tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu ly hôn với anh H là có căn cứ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần thông báo cho anh H đến giải quyết nhưng anh H không chấp hành, điều này chứng tỏ anh H không có thiện chí và không có mong muốn hàn gắn gia đình. Quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn CL, cũng xác định chị K và anh H không còn chung sống với nhau hơn 01 năm nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị K và anh H không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị K.

[4] Về con chung: Chị K hiện nay là người trực tiếp nuôi con chung Lục Đình Mỹ D (sinh ngày 18/12/2015). Do anh H không đến Tòa án làm việc nên không xác định được ý kiến của anh H về vấn đề con chung. Vì vậy, để tránh xáo trộn cuộc sống của cháu Duyên, Hội đồng xét xử sẽ giao con chung cho chị K tiếp tục nuôi dưỡng. Chị K không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét mức đóng góp phí tổn nuôi con chung của anh Lục Tấn H.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Theo trình bày của chị K là không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị Đinh K phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a, Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1.Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Đinh K đối với anh Lục Tấn H. Giấy chứng nhận kết hôn số 106/2015 ngày 20/10/2015 của Ủy ban nhân dân thị trấn CL, huyện BB, tỉnh Bình Thuận hết hiệu lực kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.

2.Về con chung: Giao con chung tên Lục Đình Mỹ D, sinh ngày 18/12/2015 cho chị Nguyễn Thị Đinh K tiếp tục nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Đinh K không yêu cầu Lục Tấn H cấp dưỡng nuôi con. Anh Lục Tấn H được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đinh K phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0016262 ngày 07/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình.

4. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Đinh K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (03/10/2019). Anh Lục Tấn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận Bản án hoặc niêm yết Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 03/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:30/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;