Bản án 30/2019/DS-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 30/2019/DS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 60/2018/TLST-DS ngày 05 tháng 10 năm 2018 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 133/2019/QĐST-DS ngày 18/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị X, sinh năm: 1971 (đã chết).

Địa chỉ: Tổ 13, ấp 10, xã S, huyện C, tỉnh Đ.

Nhng người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn:

+ Ông Bùi Quang B, sinh năm: 1964.

Đa chỉ: Trại giam X, ấp B, xã T, huyện X, tỉnh B (Vắng mặt)

+ Anh Bùi Quang Vinh Đ, sinh năm: 1992.

Đa chỉ: Tổ 13, ấp 10, xã S, huyện C, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

+ Chị Bùi Thụy Minh H, sinh năm: 1999.

Đa chỉ: Tổ 13, ấp 10, xã S, huyện C, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông B, anh Đ và chị H: Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm: 1950 

Địa chỉ: Số 01, tổ 01, ấp L, xã X, huyện C, tỉnh Đ. Văn bản ủy quyền ngày 03/9/2019. (Có mặt)

- Bị đơn: Ông Trịnh Văn V, sinh năm: 1973 và bà Bùi Thị Q, sinh năm: 1972.

Địa chỉ: Ấp 10, xã S, huyện C, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Quang B, sinh năm: 1964.

Đa chỉ: Trại giam X, ấp B, xã T, huyện X, tỉnh B. (Vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Binh: Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm: 1950.

Đa chỉ: Số 01, tổ 01, ấp L, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Văn bản ủy quyền ngày 03/09/2019. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 30/6/2018 của nguyên đơn là bà Đỗ Thị X, trong quá trình làm việc và tại phiên tòa hôm nay, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn do người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn là ông B, anh Đ và chị H là ông Nguyễn Hoàng D trình bày:

Do quen biết nhau nên vợ chồng bà X, ông B có cho vợ chồng ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q vay tổng số tiền là 150.000.000 đồng. Việc vay tiền chia làm nhiều lần cụ thể như sau:

- Lần thứ 1 vào ngày 22/7/2013 (âm lịch) số tiền vay là 50.000.000 đồng;

- Lần thứ 2 vào ngày 30/8/2013 (âm lịch) số tiền vay là 100.000.000 đồng.

Tng 02 lần vay với số tiền gốc là 150.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất là 2%/tháng. Các lần vay ông V đều viết giấy ký nhận tiền nợ, có lần bà Q cũng ký vào giấy vay, hai bên thỏa thuận việc trả lãi là 03 tháng ông V, bà Q sẽ trả lãi 1 lần. Khi hẹn vay số tiền lần đầu thì vào ngày 16/7/2013 do lúc đó bà X chưa có tiền cho vay nên ông D (là anh rễ của bà X) cho vay trước, sau đó đến ngày 22/7/2013 âm lịch bà X mới đưa tiền cho ông V. Ngày 16/7/2013, vợ chồng ông V, bà Q có ghi giấy cầm cố diện tích đất 3.400m2 ti tổ 5, ấp 10, S cho cho bà Đỗ Thị X và vợ chồng ông Nguyễn Hoàng D (vì vợ chồng ông D cũng cho ông V, bà Q vay tiền, vì bà X là em của vợ ông D nên khi ghi giấy nợ thì ông V ghi chung 01 tờ giấy). Việc vay tiền không hẹn ngày trả nợ, chỉ thỏa thuận miệng là khi nào bà X cần lấy lại tiền vay thì thông báo cho ông V, bà Q trước 01 tuần. Đến tháng 02/2017 do cần tiền nên bà X yêu cầu vợ chồng ông V, bà Q trả nợ, nhưng ông bà nhiều lần hứa hẹn rồi vẫn không trả. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông V, bà Q trả cho vợ chồng ông số tiền nợ gốc là 150.000.000 đồng.

Trong quá trình vay, thì ông V đã trả được 02 lần tiền lãi, lần đầu vào tháng 10/2013 âm lịch với số tiền 3.000.000 đồng (chỉ trả 1 tháng tiền lãi), lần 2 vào tháng 01/2014 với số tiền 6.000.000 đồng (là 2 tháng tiền lãi), với tổng số tiền lãi đã trả là 9.000.000 đồng (tương đương 3 tháng tiền lãi), lần trả lãi cuối cùng của vợ chồng ông V trả lãi là vào đầu tháng 01/2014. Trong quá trình chuẩn bị xét xử thì nguyên đơn yêu cầu vợ chồng ông V, bà Q trả lãi suất với mức là 1,7%/tháng tính từ ngày 22/7/2013 (âm lịch) đối với khoản vay thứ nhất và từ ngày 30/8/2013 (âm lịch) đối với khoản vay thứ hai. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay người đại diện của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn yêu cầu vợ chồng ông V, bà Q trả cho chồng của nguyên đơn là ông B với mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định tính từ ngày là ngày 01/01/2014 tính đến nay là 70 tháng 25 ngày nhưng đồng ý làm tròn là 70 tháng, và đề nghị trả lãi cho đến khi thi hành án xong. Ngoài ra, đại diện theo ủy quyền cho người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn còn yêu cầu ông V, bà Q phải trả cho chồng của nguyên đơn là ông B số tiền 4.800.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi phí cho việc yêu cầu giám định chữ viết, chữ ký của ông V trong giấy vay nợ.

Ông D đề nghị Tòa án buộc vợ chồng ông V, bà Q trả số tiền nợ gốc và lãi suất cho ông B, vì ông B là chồng bà X và các con bà X, ông B do ông đại diện đều đồng ý ý kiến trên.

* Tại biên bản lấy lời khai tại Tòa án bị đơn là ông Trịnh Văn V trình bày: Do vợ chồng ông và bà Đỗ Thị X là đồng hương và là hàng xóm của nhau. Nên vợ chồng ông có vay của bà Đỗ Thị X hai lần với tổng số tiền là 150.000.000 đồng để làm vốn làm ăn vào năm 2013, ông không nhớ rõ ngày tháng năm vay, hai bên có thỏa thuận lãi suất 02% tháng. Vay tiền là về để vợ chồng chúng ông đầu tư trồng trọt, phát triển kinh tế gia đình.Trước khi vay tiền vợ chồng đã bàn bạc với nhau, vợ ông là bà Bùi Thị Q biết về việc vay tiền, ông xác định đây là nợ chung vợ chồng. Vợ chồng ông cũng đã có trả lãi cho bà X mấy lần nhưng ông không nhớ rõ cụ thể số tiền và số lần trả lãi. Vợ chồng ông đồng ý trả số tiền nợ gốc là 150.000.000 đồng tiền gốc và xin được trả 50.000.000 đồng tiền lãi.

* Bị đơn là bà Bùi Thị Q đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để làm việc nhưng bà cố tình vắng mặt nên không có lời khai.

* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Quang B do ông Nguyễn Hoàng D đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông B thống nhất lời trình bày của nguyên đơn trước đây, yêu cầu vợ chồng ông V, bà Q trả cho ông số tiền nợ gốc là 150.000.000 đồng và lãi suất là theo quy định pháp luật.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ: Việc thụ lý, thu thập chứng cứ là đúng trình tự pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án ra Quyết định tạm đình chỉ khi vụ án đã quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Vì vậy đề nghị Tòa án cần khắc phục những vi phạm trên. Việc tuân theo pháp luật của HĐXX, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, thư ký, nguyên đơn tại phiên tòa được thực hiện đúng quy định pháp luật, bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia phiên tòa là không chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc vợ chồng ông V, bà Q trả số tiền nợ gốc cho ông Bùi Quang B và lãi suất theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn là bà Đỗ Thị X trình bày, bà có cho vợ chồng ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q vay số tiền 150.000.000 đồng, do vợ chồng ông V không trả tiền theo thỏa thuận nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông V, bà Q trả tiền. Như vậy, đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng dân sự” mà cụ thể là tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo khoản 3 Điều 26 BLTTDS. Theo biên bản xác minh của Tòa án ngày 16/11/2018 tại công an xã S (BL 20) thì ông V, bà Q có hộ khẩu thường trú tại ấp 10, xã S, huyện C, tỉnh Đ. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

[2] Về tư các tham gia tố tụng và thủ tục tố tụng:

- Bà Đỗ Thị X có yêu cầu khởi kiện ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, nên bà X được xác định là nguyên đơn, ông V và bà Q là bị đơn. Theo trình bày của bà X và chồng là ông Bùi Quang B thì số tiền cho vợ chồng ông V, bà Q vay là tài sản chung của vợ chồng, nên ông B được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án, nguyên đơn là bà Đỗ Thị X đã chết ngày 03/9/2019, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà X: chồng là ông Bùi Quang B, các con là anh Bùi Quang Vinh Đ và chị Bùi Thụy Minh H được xác định là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.

- Về thủ tục tố tụng: Ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Ông Bùi Quang B, anh Bùi Quang Vinh Đ và chị Bùi Thụy Minh H đã ủy quyền cho ông Nguyễn Hoàng D đại diện tham gia vụ án. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông V, bà Q, ông B, anh Đ và chị H là hoàn toàn phù hợp.

[3] Pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp: Do 2 bên có thỏa thuận vay vào ngày 22/7/2013 đến ngày 28/8/2013 và bị đơn cũng trả lãi đến tháng 01/2014, như vậy pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp là theo quy định Bộ luật dân sự 2005.

[4] Về nội dung vụ án:

Xét lời trình bày của các đương sự nhận thấy: Quá trình thu thập chứng cứ nguyên đơn có cung cấp giấy vay tiền thể hiện đầy đủ số lần ông V, bà Q đã vay và 01 giấy cầm cố thể hiện nội dung ông V cầm cố thửa đất 3.400m2 cho bà X và ông D (tại BL 40-41). Và Tòa án đã đề nghị Phân viện Khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh tiến hành giám định mẫu chữ viết và chữ ký trong giấy cầm cố và giấy vay do nguyên đơn cung cấp (BL 40 – 41) so với các chữ ký và chữ viết của ông Trịnh Văn V trong hồ sơ vụ án trước đây mà ông V làm bị đơn mà Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ đã giải quyết (BL 33 đến 39). Theo kết luận giám định số 2340/C09B ngày 01/7/2019 của Phân viện KHHS Tp.Hồ Chí Minh kết luận chữ ký và chữ viết trong giấy cầm cố, giấy vay do nguyên đơn cung cấp so với chữ ký, chữ viết tại các bản tự khai trong vụ án do Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ cung cấp là do cùng một người ký và viết ra. Bị đơn ông Trịnh Văn V cũng thừa nhận ông và vợ ông bà Bùi Thị Q có vay của bà X số tiền là 150.000.000 đồng, nhằm mục đích phát triển kinh tế gia đình và đây là nợ chung của vợ chồng.

Với những lời khai và chứng cứ nêu trên đã đủ cơ sở chứng minh ông V có vay của bà Xăm số tiền 150.000.000 đồng. Xét thấy đây là khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của ông V, bà Q, nên căn cứ vào Điều 471, Điều 474, Điều 476 của BLDS năm 2005 cần buộc cả ông V, bà Q phải trả số tiền trên cho bà X và ông B. Vì bà X đã chết, ông B là chồng bà X và các con bà X là người được quyền nhận số tiền trên; tuy nhiên, do ông D đại diện cho các con của bà X và đại diện cho ông B đề nghị Tòa án tuyên giao số tiền trên cho ông B. Xét yêu cầu trên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên ghi nhận.

Do đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn đề nghị tính lãi từ ngày 01/01/2014 đến nay là 5 năm 10 tháng 25 ngày (tức 70 tháng 25 ngày) và đồng ý làm tròn 70 tháng. Đối với số tiền lãi 9.000.000 đồng là xem như trả cho 3 tháng tiền lãi tính từ ngày vay số tiền 50.000.000 đồng là ngày 28/8/2013 dương lịch và ngày 04/10/2013 dương lịch đối với số tiền vay 100.000.000 đồng nên không đề nghị xem xét lại. Xét yêu cầu trên là phù hợp, bởi do cả 2 lần đã trả lãi trước đó là 3 tháng là phù hợp với thỏa thuận 2%/tháng là 3.000.000 đồng/tháng đối với số tiền vay 150.000.000 đồng và không ai có yêu cầu đề nghị điều chỉnh mức lãi suất nên Tòa án không xem xét; vậy nên việc tính lãi từ ngày 01/01/2014 là phù hợp.

Và theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng” Và theo quy định tại Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9,0%/năm. Vì vậy, do 2 bên có thỏa thuận lãi suất nhưng vượt quá mức lãi suất theo quy định nên Tòa án chỉ chấp nhận mức lãi suất là 150% mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 9%. Tức mức lãi suất chấp nhận là 150 x 9% = 13,5%/năm = 1,125%/tháng.

Vì vậy, số tiền lãi buộc ông V, bà Q phải trả cho ông B như sau: 150.000.000 đồng x 1,125% = 1.687.500 đồng/tháng x 70 tháng = 118.125.000 đồng.

[5] Về chi phí tố tụng: Do nhiều lần được triệu tập ông V, bà Q không ra Tòa án làm việc, nên để có cơ sở chứng minh chữ ký, chữ viết trong giấy vay là chữ của ông V, nguyên đơn đã có yêu cầu giám định. Và kết quả giám định thể hiện yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở. Căn cứ khoản 2 Điều 161 BLTTDS, thì người phải chịu chi phí giám định là người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự khác trong vụ án, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu giám định là có căn cứ. Vì vậy, buộc ông V, bà Q phải trả cho ông B số tiền giám định chữ ký là 4.800.000 đồng là phù hợp.

[6] Về án phí: Ông V, bà Q phải nộp án phí trên tổng số tiền nợ gốc và lãi trả cho ông B là 268.125.000 x 5% = 13.406.000 đồng.

* Về quan điểm của VKSND huyện Cẩm Mỹ phù hợp với quy định pháp luật và quan điểm của HĐXX nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, 35, 39, 147, 161, 227, 228, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 688 Bộ luật dân sự 2015;

Căn cứ Điều 471, 474, 476 Bộ luật dân sự 2005;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Đỗ Thị X và người kế thừa nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn là ông Bùi Quang B, anh Bùi Quang Vinh Đ và chị Bùi Thụy Minh H.

- Buộc ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q trả cho ông Bùi Quang B số tiền nợ gốc là 150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu) đồng và tiền lãi suất là 118.125.000 đồng đồng (Một trăm mười tám triệu một trăm hai lăm nghìn đồng) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong thì người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền với mức lãi suất bằng 1,125%/tháng tương ứng với số tiền nợ gốc và thời gian chậm trả.

2. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q trả cho ông Bùi Quang B số tiền chi phí giám định là 4.800.000 (Bốn triệu tám trăm nghìn) đồng.

3. Về án phí:

- Buộc ông Trịnh Văn V và bà Bùi Thị Q phải nộp số tiền 13.406.000 đồng (Mười ba triệu bốn trăm lẻ sáu nghìn đồng) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn trả cho ông Bùi Quang B số tiền 6.224.000 (Sáu triệu hai trăm hai mươi bốn nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí bà X đã nộp tại Biên lai thu tiền số 004509 ngày 05/10/2018 của Chi cục Thi hành án huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt được 15 ngày kháng cáo bản án, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2019/DS-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:30/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;