TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THUỶ, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 30/2018/HSST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28/11/2018 tại hội trường TAND huyện Cẩm Thủy. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2018/HSST, ngày 05/11/2018 đối với các bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn B. Tên gọi khác: Nguyễn Thế A, sinh ngày:28/01/1999 tại xã Cẩm Bình, huyện c, tỉnh Thanh Hóa;Nơi cư trú: Thôn X, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hóa: 7/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.
Con ông: Nguyễn Văn S – SN 1956 và bà Cao Thị Ng – SN: 1962. Gia đình bị cáo có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 07. Vợ con: Chưa có
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo Nguyễn Văn B bị bắt tạm giam từ ngày 10/9/2018 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
Họ và tên: Nguyễn Tiến Đ. Tên gọi khác: (Đ L), sinh ngày: 04/8/1993 tại xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Th, tỉnh Th Hóa;
Nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa;
Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 12/12. Dân tộc: Mường.
Tôn giáo: Không.
Con ông: Nguyễn Gia L – SN 1971 và bà Quách Thị Tuyển – SN: 1971.
Gia đình bị cáo có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ 02. Vợ con: Chưa có
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 29/4/2014, Đ bị TAND huyện Cẩm Thủy xử phạt 3.000.000đ về tội đánh bạc theo bản án số 19/2014/HSST, ngày 29/4/2014 (đã được xóa án tích). Ngày 25/8/2015, Đ bị Công an TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo tại ngoại tại địa phương, có mặt.
- Bị hại: Anh Hà Văn H, sinh năm 1977. .
Trú tại: Thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Thái H: Trú tại: Thôn B, xã C, huyện C, Thanh Hóa. Vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:
1. Anh Trương Văn Th: Trú tại: Thôn L, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Đăng Th: Trú tại: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.Vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Văn H: Trú tại: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Văn H: Ông Nguyễn Xuân Th.
Trú tại: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
4. Nguyễn Văn Ch: Trú tại: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ, ngày 08/7/2018, Nguyễn Văn B đi đến quán cà phê Cây Sữa thuộc thôn Tr, xã C, huyện C để tìm gặp Nguyễn Tiến Đ. Khi gặp Đ, B hỏi Đ vay số tiền 300.000đ. Đ đồng ý cho B vay. Sau đó, B nói với Đ “Ở đây có cái kìm nào không? Tối em đi cắt Lan bán lấy tiền”. Đ vào quán lấy 01 cái kìm cho B mượn và lấy xe mô tô chở B vào nhà Nguyễn Văn Ch ở Thôn B, xã C. Tại nhà Ch, B nhờ chở ra dốc thôn V, xã C để trộm cắp hoa Phong Lan và Đ đồng ý chở B đi. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày, Đ chở B đi trộm Phong Lan.
Trước khi chở B đi, Đ rủ Ch đi chơi cùng với Đ. Đ chở B và Ch đến đầu dốc thôn V, xã C thì B nhảy xuống xe, còn Đ chở Ch ra khu vực cây xăng C và chơi ở đó. Sau khi xuống xe, B đi vào nhà anh Hà Văn H dùng kìm mang theo để cắt dây thép và trộm được 04 giò Phong Lan loại Phi Điệp. Sau khi trộm cắp được 04 giò Phong Lan thì B gọi điện cho Đ quay lại đón. B nhờ Ch mang 02 giò Phong Lan về nhà Ch nên Đ chở Ch về, rồi tiếp tục ra đón B và cùng về nhà Ch. B đã cất 04 giò Phong Lan vào nhà cũ của bố Ch. Sau đó, Đ về quán cà phê Cây Sữa ngủ, B ngủ lại nhà cũ của bố Ch.
Đến sáng ngày 09/7/2018 B gặp anh Nguyễn Đăng Th, trú tại thôn B, xã C, B nhờ anh Th tìm giúp người mua Phong Lan. Sau đó, anh Th đã liên lạc với Bùi Thái H, trú tại thôn B, xã C, huyện C để giới thiệu mua Phong Lan của B. Sau khi gặp anh H, B hỏi bán 04 (bốn) giò phong Lan cho anh H. Đến khoảng 10 giờ ngày 09/7/2018 anh Bùi Thái H đi đến nơi B cất giấu Phong Lan để xem và B đồng ý bán 04 (bốn) giò Phong Lan cho anh H với giá 800.000 đ (tám trăm nghìn đồng). Sau đó, anh H đi lấy tiền và đưa trước cho B số tiền là 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi lấy tiền của anh H, B dặn anh H đưa cho Nguyễn Tiến Đ số tiền 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng). Đến chiều ngày 09/7/2018 anh H gặp Đ và đưa cho Đ số tiền 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Đến ngày 10/7/2018 Phạm Văn M, trú tại thôn B, xã C, huyện C đến nhà anh H chơi và biết anh H bán Phong Lan nên gọi điện thoại cho anh họ là Trương Văn Th, trú tại thôn L, xã C, huyện C để xuống xem. Đến khoảng 13 giờ ngày 10/7/2018, Trương Văn Th đi xuống nhà anh H xem Phong Lan. Sau khi xem, anh Th đã đồng ý mua 04 (bốn) giò Phong Lan với giá 1.500.000 đ (một triệu năm trăm nghìn đồng). Sau đó, anh H cùng Th mang 04 (bốn) giò Phong Lan về quán của anh Th ở thôn L, xã C, huyện C. Đến ngày 13/7/2018 anh Hà Văn H làm đơn báo cáo Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Th về việc bị mất trộm Phong Lan. Quá trình điều tra đã xác định Nguyễn Văn B và Nguyễn Tiến Đ đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 04 (Bốn) giò Phong Lan của gia đình anh Hà Văn H vào đêm 8/7/2018.
Theo báo cáo của bị hại anh Hà Văn H, vào đêm 8/7/2018 gia đình anh bị mất 04 giò Phong Lan Phi Điệp có các đặc điểm như sau:
- 01 (một) giò Phong Lan Phi Điệp bám trên thân gỗ gồm có: 09(chín) thân đang ra lá và 08 (tám) thân già.
- 01 (một) giò Phong Lan Phi Điệp bám trên thân gỗ gồm có: 03 (ba) thân đang ra lá và 02 (hai) thân già.
- 02 (hai) giò Phong Lan đều là loại Phi Điệp bám trên thân gỗ gồm có: 03(ba) thân đang ra lá và 03(ba) thân già.
Tại bản kết luận định giá số 20/HĐ - ĐGTS ngày 25/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cẩm Thủy kết luận: 04 (bốn) giò Phong Lan Phi Điệp tại thời điểm bị chiếm đoạt có tổng giá trị là 3.800.000 đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng).
Về vật chứng vụ án:
Ngày 06/8/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Thủy ra quyết định xử lý vật chứng số 21/CSĐT, trả lại tài sản là 04 (bốn) giò Phong Lan Phi Điệp cho chủ sở hữu là anh Hà Văn H, anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì thêm.
Đối với chiếc xe mô tô mà Đ sử dụng để chở B đi trộm cắp tài sản là xe mượn của Nguyễn Văn H, trú tại thôn S xã C, Cẩm Thủy. Quá trình điều tra đã xác minh hiện nay H không có mặt tại địa phương nên cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Th chưa làm rõ được nguồn gốc chiếc xe này.
Đối với chiếc kìm mà B sử dụng để trộm cắp Phong Lan thì sau khi B trộm cắp thì B không nhớ là để ở đâu. Vì vậy, quá trình điều tra không thu giữ được chiếc kìm này.
Về dân sự:
Anh Trương Văn Th sau khi giao nộp 04 giò Phong Lan Phi Điệp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Thủy và đã nhận đủ số tiền 1.500.000đ do anh H trả lại, anh không có đề nghị bồi thường gì thêm về mặt dân sự.
Đối với số tiền anh Bùi Thái H mua Phong Lan của các bị cáo. Quá trình điều tra vụ án, anh không yêu cầu các bị cáo bồi thường.
Đối với các anh Nguyễn Văn Ch, được Nguyễn Tiến Đ rủ đi chơi và đem Phong Lan về nhà mình. Nguyễn Đăng Th, được B nhờ tìm người mua Phong Lan. Bùi Thái H, Trương Văn Th là người mua Phong Lan đều không biết 04 giò Phong Lan trên là do trộm cắp mà có. Do vậy không đủ cơ sở để truy cứu TNHS đối với họ về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại điều 323 Bộ luật hình sự.
Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSCT- SH, ngày 01/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Thuỷ đã quyết định truy tố: Nguyễn Văn B và Nguyễn Tiến Đ về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173- BLHS.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, điểm i khoản 1 và khoản 2
Điều 51, Điều 38, Điều 58 - BLHS, lên mức án đối với bị cáo B từ 6 đến 9 tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 - BLHS lên mức án đối với bị cáo Đ từ 6 đến 9 tháng tù.
Về dân sự: Bị hại không yêu cầu gì về vấn đề dân sự, nên không xem xét.
Đối với số tiền anh Bùi Thái H mua Phong Lan của các bị cáo. Quá trình điều tra vụ án, anh không yêu cầu các bị cáo bồi thường. Tại phiên tòa anh H vắng mặt, nên căn cứ Điều 292 – BLTTHS đề nghị tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu anh H có yêu cầu.
Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố là đúng. Người làm chứng, bị hại đều có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo và nội dung cáo trạng.
Bị cáo B trình bày: Bị cáo mượn kìm của Đ và nhờ Đ chở đi trộm cắp Phong Lan và là người trực tiếp trộm cắp 04 giò hoa Phong Lan Phi Điệp trị giá 3.800.000đ tại gia đình anh Hà Văn H thôn V, xã C, huyện C, Thanh Hóa vào tối ngày 08/7/2018. Nay bị cáo thấy hành vi của mình là sai đã thành khẩn khai báo, mong được sự khoan hồng của pháp luật.
Bị cáo Đ trình bày: Khi bị cáo B nhờ bị cáo chở đi trộm cắp hoa Phong Lan, bị cáo đồng ý và biết bị cáo B dùng kìm mượn ở quán cây Sữa để cắt trộm Phong Lan. Khi bị cáo B trộm được Phong Lan, bị cáo đến chở về để B cất giấu. Quá trình tại ngoại ở địa phương, ngày 19/10/2018, bị cáo bị UBND xã C ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, hình thức cai nghiện tại gia đình. Nay bị cáo thấy việc làm của mình là sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Th, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Thủy, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án: Ngày 08/7/2018, Nguyễn Văn B và Nguyễn Tiến Đ đã có hành vi trộm cắp 04 giò Phong Lan loại Phi Điệp của gia đình anh Hà Văn H trị giá 3.800.000đ.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn B và Nguyễn Tiến Đ phạm vào tội trộm cắp tài sản, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 – BLHS, như Viện kiểm sát huyện Cẩm Thuỷ truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sở hữu hợp pháp của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Xét tính chất của vụ án thì đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc trước. Để lên mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội cần đánh giá vai trò của từng bị cáo.
Đối với Nguyễn Văn B là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Đ và cũng là thực hành tích cực. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. NH đánh giá bị cáo là vai trò chính trong vụ án nên cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành người tốt, đồng thời góp phần vào công tác phòng ngừa chung.
Đối với Nguyễn Tiến Đ là kẻ giúp sức. Khi biết bị cáo B đi trộm cắp hoa Phong Lan đã lấy kìm cho B mượn, chở B đi trộm cắp và đón B về. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Xét nhân thân bị cáo ngày 29/4/2014 đã bị TAND huyện Cẩm Thủy xét xử về tội đánh bạc, ngày 25/8/2015 bị Công an TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình tại ngoại bị cáo bị UBND xã ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã cai nghiện tại gia đình. Do đo, việc lên mức hình phạt tù đối với bị cáo và cũng cần phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có cơ hội cải tạo là cần thiết.
[3]. Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm. Hội đồng xté xử không xem xét.
Đối với số tiền anh Bùi Thái H mua Phong Lan của các bị cáo. Quá trình điều tra vụ án, anh không yêu cầu các bị cáo bồi thường. Tại phiên tòa anh H vắng mặt, nên tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu anh H có yêu cầu.
[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Nguyễn Văn B và Nguyến Tiến Đ phạm tội trộm cắp tài sản.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 – BLHS. Xử phạt Nguyễn Văn B 07 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/9/2018.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 – BLHS. Xử phạt Nguyễn Tiến Đ 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án .
Về dân sự: Căn cứ Điều 292 – Bộ luật tố tụng hình sự. Tách việc bồi thường đối với số tiền anh Bùi Thái H mua Phong Lan của các bị cáo để giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi anh H có yêu cầu.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 – Bộ luật TTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, báo cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 30/2018/HSST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 30/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về