Bản án 30/2017/HSST ngày 20/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 30/2017/HSST NGÀY 20/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 30/2017/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1996; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Lò Văn D – SN: 1973 và bà Lò Thị L – SN: 1974; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 28/8/2017 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Cà Văn T; Tên gọi khác: Không; SN: 1996; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Cà Văn S – SN: 1973 và bà Cà Thị Đ – SN: 1977; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 28/8/2017 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 22 giờ 20 phút ngày 28/8/2017, tại khu vực tiểu khu 05, thị trấn Thuận Châu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đã phát hiện bắt quả tang các đối tượng: Lò Văn T và Cà Văn T ( Cùng trú tại: Bản C – xã C - Thuận Châu, - Sơn La ) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa bột màu trắng ( Theo đối tượng Thỏa khai nhận là Heroin ).

- 01 bao thuốc lá Thăng Long, vỏ màu vàng đã bóc dở, bên trong có 03 điều thuốc lá còn nguyên và 01 điều đã bị đốt cháy dở;

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, BKS: 26B2 – 081.04.

Kết quả cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của các đối tượng ( T + T ) có trọng lượng 0,26 gam ( Không phẩy hai mươi sáu gam ), rút 0,05 gam ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy. Số còn lại là 0,21 gam ký hiệu T2 đã niêm phong.

Tại bản kết luận giám định số: 857/KLMT ngày 01/9/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy; Loại chất Heroine; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0.05 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,26 gam; Loại chất Heroine.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, các bị can Lò Văn T và Cà Văn T đã khai nhận như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 28/8/2017, trong khi Cà Văn T đang đi chơi ở phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, thì gặp một nam thanh niên tên H, nhà ở TP Sơn La, H rủ T lên huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy sử dụng, H điều khiển xe máy BKS: 26B2 – 081.04 chở T đi lên huyện Thuận Châu, khi đến đoạn ngã ba bản Phiêng Bông, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, thì gặp Lò Văn T ( Bạn của T ), T hỏi Lò Văn T: Có biết chỗ nào bán ma túy thì cùng nhau đi mua về cùng sử dụng. Lò Văn T đồng ý, H liền đưa T số tiền 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng ), Tđưa lại cho Lò Văn T, Lò Văn T bảo H điều khiển xe máy chở T và Lò Văn T đến khu vực bản T, xã T, trên đường đi Lò Văn T mượn điện thoại của H gọi cho một người đàn ông tên H1 ở bản Thẳm hỏi mua ma túy, khi tới bản Thẳm cả bọn chờ khoảng 10 phút, thì H1 đi xe máy tới, Lò Văn T hỏi H1 “ Có ma túy ở đấy chưa ? ” H1 trả lời “ Đưa tiền đây anh đi mua cho ”, tuy nhiên Lò Văn T yêu cầu được đi cùng và thỏa thuận khi đến nơi có bán ma túy, Lò Văn T sẽ đưa tiền cho H1, H1 đồng ý rồi mượn xe máy của T chở Lò Văn T đi đến bản T, xã T, huyện Thuận Châu, tới địa phận bản T thì H1 bảo Lò Văn T xuống xe, đưa tiền cho H1 và ngồi đợi ngoài đường, về phía H1 thì đi vào bản T, sau khoảng 30 phút quay trở ra nói với Lò Văn T là đã mua được ma túy, rồi điều khiển xe máy chở Lò Văn T quay lại chỗ T và H đang đợi. Trên đường đi H1 dừng xe đưa Lò Văn T 01 gói Heroin đồng thời xin Lò Văn T bớt ra một ít để sử dụng, số còn lại Lò Văn T gói lại bằng mảnh ni lon màu trắng cầm ở tay trái rồi một mình điều khiển xe máy đến nơi T và H đang đợi. Tiếp đó Lò Văn T, H1 và T di chuyển bằng xe máy đến khu vực bản L2, xã T, xuống xe đi bộ vào bụi cây ven đường lấy gói Heroin ra cùng nhau sử dụng, sau khi thỏa mãn cơn nghiện Lò Văn T gói lại số Heroin còn thừa đưa cho H, H dấu gói Heroin vào trong đầu lọc điếu thuốc lá Thăng Long đang hút dở ( Đã dụi tắt lửa ) rối cất vào bao thuốc lá vào trong túi áo khoác đằng trước đang mặc và điều khiển xe máy chở theo T và Lò Văn

T đi về hướng trung tâm thị trấn Thuận Châu, khi tới đoạn tiểu khu 05, thị trấn Thuận Châu, thì Lò Văn T bảo H đưa cho Lò Văn T cầm bao thuốc lá có dấu gói Heroin và nói “ Ăn tối xong thì cùng nhau tiếp tục sử dụng ”, trong khi cả bọn cùng ăn tối ở một quán ven đường đúng vào lúc H đi bộ ra ngoài, thì tổ công tác Công an Huyện Thuận Châu, xuất hiện yêu cầu kiểm tra hành chính đối với Lò Văn T và T. Kết quả đã phát hiện Lò Văn T và T đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng là Heroin như đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 173/KSĐT ngày 21/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố các bị can: Lò Văn T và Cà Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm đề nghị truy tố các bị cáo Lò Văn T và Cà Văn T với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo;

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194 – điểm p khoản 1 Điều 46 –Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên bố các bị cáo Lò Văn T và Cà Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

+ Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn T mức án từ 12 đến 18 tháng tù.

+ Đề nghị xử phạt bị cáo Cà Văn T mức án từ 12 đến 18 tháng tù.

* Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS đối với các bị cáo.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ Vật chứng là 0,21 gam Heroin ( Số còn lại sau khi trích rút 0,05 gam gửi giám định );

+ Vật chứng là 01 bao thuốc lá Thăng Long, bên trong còn 03 điếu nguyên và 01 điếu hút dở, các bị cáo sử dụng cất dấu ma túy.

Tại phiên tòa các bị cáo cùng có ý kiến: Do các bị cáo nghiện ma túy, nên đã bị đối tượng H rủ rê, đưa số tiền 300.000đ để cùng nhau tìm mua ma túy về sử dụng chung. Nay đã biết tội, xin Hội đồng xét xử xem xét việc các bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo mà giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Vào hồi 22 giờ 20 phút ngày 28/8/2017, tại khu vực tiểu khu05, thị trấn Thuận Châu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, các bị cáo Lò Văn T và Cà Văn T, đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ phép một lượng ma túy ( 0,26 gam Heroin ) với mục đích sử dụng cho bản thân ( Thỏa mãn cơn nghiện ).

Xét các bị cáo là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi nhờ mua và tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Lời khai của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định vật chứng là ma túy ( Heroin ), cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận: các bị cáo Lò Văn T và Cà Văn T đã đồng phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, như quan điểm truy tố và bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tại Điều 194 BLHS năm 1999 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi, xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý, cụ thể hành vi phạm tội của các bị cáo là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh các tội phạm khác về ma túy như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma túy trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của mỗi bị cáo, nhằm mục đích trừng trị, răn đe, giáo dục và cải tạo các bị cáo về ý thức chấp hành pháp luật nhà nước. Áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, với chế tài hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về tội phạm và hình phạt.

[5] Trong vụ án các bị cáo cùng thực hiện một hành vi tội phạm, trong đó bị cáo Cà Văn T giữ vai trò là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Lò Văn T tìm mua ma túy sử dụng; với bị cáo Là Văn T giữ vai trò giúp sức tích cực tìm kiếm thông tin, điều kiện để có thể mua được ma túy về cùng để nhau sử dụng. Do đó cần áp dụng Điều 53 BLHS; Để đánh giá tính chất vai trò của mỗi đồng phạm trong vụ án, làm căn cứ quyết định hình phạt.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng bị áp dụng.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo cùng có thái độ ăn năn, hối lỗi, thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện. Do đó được xem xét áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.

[8] Xét tội danh các bị cáo đang bị xét xử ( Tàng trữ trái phép chất ma túy ) thuộc trường hợp quy định tại: Nghị quyết số: 41/2017/QH14 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; theo hướng xét xử có lợi cho bị cáo bởi: So sánh mức hình phạt về cùng tội danh theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ( Từ 02 năm đến 07 năm tù ) với điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 ( Từ 01 năm đến 05 năm tù ), thì mức hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, là có lợi cho người phạm tội. Do vậy cần áp dụng các quy định pháp luật đã viện dẫn ở trên đối với các bị cáo.

[9] Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS. Căn cứ vào kết quả xác minh thể hiện các bị cáo cùng thuộc hộ gia đình nghèo, theo quy định của Chính phủ. Do vậy không thuộc trường hợp áp dụng.

[11] Vật chứng là 0,21 gam Heroin ( Số còn lại sau khi trích rút 0,05 gam gửi giám định ) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo, đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy. Vật chứng là bao thuốc lá các bị cáo sử dụng cất dấu ma túy, cần áp dụng quy định nêu trên, để tuyên tịch thu tiêu hủy.

[12] Đối với vật chứng là chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, BKS: 26B2 – 081.04. Kết quả điều tra xác định: Chủ sở hữu chiếc xe là ông Bạc Cầm V ( Người cùng bản C, xã C ), việc ông V cho bị cáo T mượn xe, thì ông V không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Do vậy cơ quan điều tra quyết định trả lại chiếc xe nêu trên cho ông V là có căn cứ.

[13] Đối với nguồn gốc 0,26 gam Heroin bị phát hiện bắt giữ, theo các bị cáo khai do nhờ đối tượng H1 nhà ở bản Thẳm A, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu mua hộ. Kết quả điều tra xác minh: Tại địa chỉ trên có một nam thanh niên tên Lường Văn H, SN: 1991, tuy nhiên hiện đối tượng không có mặt tại địa phương, đia đâu ? làm gì ?, gia đình H1 và chính quyền địa phương không biết. Do vậy cơ quan Điều tra sẽ tiếp tục điều tra và xử lý sau.

[14] Đối với lời khai của các bị cáo về đối tượng H ( Nhà ở TP Sơn La ) là người đưa các bị cáo số tiền 300.000đ để tìm mua ma túy về để cùng nhau sử dụng. Xét ngoài thông tin trên, các bị cáo không cung cấp được tài liệu gì thêm làm cơ sở chứng minh. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[15] Các bị cáo cùng thuộc hộ gia đình nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại: điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[16] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:Tuyên bố các bị cáo Lò Văn T và Cà Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 194 – điểm p khoản 1 Điều 46 – Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 28/8/2017 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1 Điều 194 – điểm p khoản 1 Điều 46 - Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Cà Văn T 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 28/8/2017 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ Bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,21g ( Không phẩy hai mươi mốt gam ), đã niêm phong.

+ 01 bao thuốc lá Thắng Long vỏ màu vàng đã bóc dở, bên trong có 03 điếu thuốc lá nguyên vẹn và 01 điếu thuốc lá đã bị đốt cháy dở.

4. Án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo.

5. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho các bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2017/HSST ngày 20/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;