Bản án 301/2020/HS-PT ngày 30/09/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 301/2020/HS-PT NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 256/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 7 năm 2020, do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2020/HS-ST ngày 09/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1647/QĐXXPT-HS ngày 08/9/2020.

Bị cáo:

Y (Tên gọi khác: Y Mé), sinh năm 1993 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Buôn H, xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Ê Đê; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Y1 và con bà H; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 13/12/2019, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Lut sư Hoàng Thị Th - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Người bị hại: Anh Y2, sinh năm 1998; trú tại: Buôn H, xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người phiên dịch: Ông Y3, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Y (sinh năm 1993) và chị H1 (sinh năm 1980) cùng trú tại buôn H, xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk có mối quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Trong cuộc sống hằng ngày Y thường xuyên chửi bới, dọa đánh H1.

Vào khoảng 20 giờ ngày 17/7/2019, Y2 (sinh năm 1998) và Y4 (sinh năm 1993) cùng trú tại buôn H, xã D, huyện C là con riêng của chị H1 về nhà thì thấy Y đang ngồi uống rượu một mình và chửi bới, dọa đánh, dọa giết mẹ của mình. Thấy Y2 và Y4 về thì Y nói ngồi xuống cùng uống rượu. Trong lúc ngồi uống rượu, Y tiếp tục chửi bới, đe doạ chị H1 và thách thức Y2 đánh mình. Thấy Y liên tục chửi bới, đe doạ và thách thức nên Y2 đứng dậy dùng tay tát vào mặt Y và đuổi Y về nhà không cho ở nhà mẹ mình nữa. Bị Y2 đánh và đuổi về nên Y đi vào phòng thu dọn hành lý của mình để đi về. Trong lúc thu dọn, Y thấy 01 con dao cán bằng tre, lưỡi dao bằng kim loại, có tổng chiều dài là 83cm (cán dao dài 51,5cm, lưỡi dao dài 31,5cm) loại một mặt cắt, lưỡi dao sắc, mũi dao bằng; lưỡi dao nơi rộng nhất là 05cm, nhỏ nhất là 2,9cm, sống dao dày 0,6cm. Do bực tức việc bị Y2 đánh, nên Y cầm dao đi ra chỗ Y2 vung dao chém từ trên xuống 01 nhát trúng vùng đầu bên trái của Y2. Bị chém Y2 bỏ chạy ra ngoài, thấy Y2 bỏ chạy Y tiếp tục sử dụng dao chém 01 nhát vào vùng lưng của Y4. Sau khi bị chém Y4 cùng với chị H1 khống chế và lấy được con dao trên tay của Y. Trong lúc giằng co thì Y bị thương ở vùng đầu. Sau khi bị tước hung khí, Y đi về nhà của mình còn Y2 và Y4 được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên.

Tại bản giám định pháp y thương tích số 1208 ngày 26/8/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận thương tích của Y2: Sẹo dính qua đuôi mắt thái dương trái, kích thước (15,5x0,3)cm; tụ máu ngoài màng cứng vùng thái dương trái; nứt, khuyết xương sọ vùng thái dương trái; nứt xương đá trái/giảm thính lực tai trái; vỡ, tụ dịch xoang hàm trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của từng thương tích là: Sẹo dính qua đuôi mắt thái dương trái 15%; tụ máu ngoài màng cứng vùng thái dương trái 23%; nứt, khuyết xương sọ vùng thái dương trái 18%; nứt xương đá trái/ giảm thính lực tai trái 20%; vỡ tụ dịch xoang hàm trái 13%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 63%. Do vật sắc tác động trực tiếp có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, từ trước ra sau.

Tại bản giám định pháp y thương tích số 1030 ngày 28/8/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận thương tích của Y4: Sẹo vết thương vùng lưng trái trên xương bả vai kích thước (3,6x0,6)cm. Sức khoẻ bị giảm do thương tích gây nên hiện tại là 4%. Do tác động trực tiếp của vật sắc gây nên có chiều hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới.

Tại bản giám định pháp y thương tích số 1027 ngày 26/8/2019 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận thương tích của Y: Sẹo đỉnh phải kích thước (3,5x0,3)cm; vết bầm tím, xây xước ở vùng mắt trại kích thước (03x04)cm, hiện tại đã hết không để lại dấu vết. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 4%. Do tác động trực tiếp của vật sắc gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, từ trước ra sau.

Tại bản giám định số 3647 ngày 21/8/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Trên lưỡi dao gửi giám định có dính máu người, kiểu gen ADN lẫn bao gồm kiểu gen của Y2 và Y4. Trên cán dao có ADN người, không phân tích được kiểu gen do lượng dấu vết ít.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2020/HSST ngày 09-6-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Y phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 .Xử phạt bị cáo Y 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 13/12/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 17/6/2020, bị hại Y2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

Bị hại Y2 trình bày giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo. Bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo dùng dao chém vào đầu bị hại Y2, hậu quả Y2 bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 63%. Bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời. Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Y về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng tội. Xét thấy, trong vụ án bị hại có một phần lỗi là đánh bị cáo trước. Từ đó, gây bức xúc cho bị cáo và bị cáo đã dùng dao chém bị hại. Bị cáo có quan hệ tình cảm với mẹ bị hại. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tích cực bồi thường cho bị hại. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại tha thiết xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu và bị cáo bổ sung: Tội danh của bị cáo không có ý kiến. Về đơn kháng cáo của bị hại thấy rằng, bị cáo với mẹ bị hại có tình cảm và chung sống với nhau. Theo phong tục tập quán người Ê Đê, bị cáo được coi như người trong nhà của bị hại. Do vậy, bị hại thấy ăn năn do vi phạm với người thân là bị cáo. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực bồi thường cho bị hại toàn bộ tiền chi phí điều trị và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh khó khăn và nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Ngày 17/6/2020, bị hại Y2 kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2020/HSST ngày 09-6-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, kháng cáo của các bị hại Y2 là trong thời hạn luật định. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị hại Y2:

[2.1] Về hành vi phạm tội: Khoảng 20 giờ ngày 17/7/2019, tại nhà bà H1 ở buôn H, xã D, huyện C, tĩnh Đắk Lắk. Do có mâu thuẫn nhỏ nhặt với Y2 trong lúc uống rượu nên Y đã dùng dao có cán bằng tre và lưỡi dao bằng kim loại dài 83cm chém 01 nhát vào đầu của Y2 theo hướng từ trên xuống và là vị trí trọng yếu trên cơ thể con người buộc bị cáo phải nhận thức sẽ gây ra hậu quả bị hại tử vong. Bị hại Y2 bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 63%. Như vậy, tổn thương cơ thể của bị hại là do bị cáo trực tiếp gây ra. Việc bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe bị hại; gây mất trật tự trị an tại địa phương. Phạm tội có tính chất côn đồ. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Y về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về mức hình phạt: Bị cáo bị xét xử theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình quy định khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 12 năm tù là có căn cứ. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, mặc dù bị cáo không kháng cáo nhưng bị hại Y2 kháng cáo tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và ân hận về hành vi phạm tội của mình đối với bị hại là con của người mà bị cáo yêu thương, chung sống với nhau. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh khó khăn, hiểu biết và nhận thức pháp luật hạn chế. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại Y2, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Sửa Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị hại Y2, sửa Bản án sơ thẩm.

2. Tuyên bố: Bị cáo Y phạm tội “Giết người” Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Y 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 13/12/2019.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Y không phải chịu.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 301/2020/HS-PT ngày 30/09/2020 về tội giết người

Số hiệu:301/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;