Bản án 299/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN L, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 299/2017/HSST NGÀY 24/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/11/2017 tại trụ sở Tổ dân phố số 5 phường Đ, quận L, TP. Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 303/2017/HSST theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 325/2017/QĐ-HSST ngày 10/11/2017 đối với bị cáo:

Phạm Văn Q, sinh năm: 1979; HKTT: Số 2 ngõ 1 Ng – phường Ng – quận L – Hà Nội; Dân tộc: Kinh. Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 6/12; Con ông: Phạm Văn H, con bà: Dương Thị L; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 1; Tiền án, tiền sự: Theo danh bản, chỉ bản số 449 lập ngày 13/8/2017 của Công an quận L, thành phố Hà Nội và lý lịch địa phương cung cấp, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Bắt ngày: 11/8/2017 (Có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Chiến Th - Sinh năm: 1985. HKTT: 1A ngõ H, phường T, quận Đ, Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19h15’ giờ ngày 18/09/2017, tổ công tác Công an phường Ph, quận L, Hà Nội trong khi đang làm nhiệm vụ trước cửa nhà số 1, phường Đ, quận L, Hà Nội phát hiện 01(Một) nam thanh niên đi vào hiệu thuốc tân dược có biểu hiện nghi vấn về ma túy, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra đối tượng khai tên là Phạm Văn Q. Quá trình kiểm tra đã phát hiện tại túi quần bên trái của Q có 02 (Hai) gói giấy màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng, Q khai là ma túy hê rô in vừa mua để sử dụng.Tang vật thu giữ của Q gồm:

+ 02 (Hai) gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng

Tại bản kết luận giám định số 5695 ngày 10/10/2017 của phòng KTHS- CATP Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói ma túy loại Heroin, tổng trọng lượng: 0,395g.

Tại cơ quan điều tra Phạm Văn Q khai nhận: Khoảng 18h30’ ngày 18/09/2017, Q điều khiển xe máy mang biển kiểm sát 89K2-1013 từ nhà sang khu vực T, tỉnh Bắc Ninh để tìm nơi mua ma túy về sử dụng. Khi đến một ngõ nhỏ thuộc T – Bắc Ninh Q gặp một người đàn ông lạ mặt Q hỏi mua ma túy, người đàn ông đó đồng ý. Q đưa cho người đàn ông đó 500000 đồng, người đàn ông đó đưa cho Q 02 (hai) gói giấy màu vàng bên trong có chứa heroin. Sau khi mua xong, Q cất 02 (hai) gói ma túy vào túi quần bên trái rồi điều khiển xe máy đi về tìm nơi sử dụng. Khi đến hiệu thuốc thuộc Đường số 1, Đ, phường Đ, quận L, Hà Nội thì dừng xe đi vào mua xilanh để về sử dụng ma túy. Khi vào đến hiệu thuốc có các anh công an kiểm tra phát hiện túi quần bên trái của Q có 02 (hai) gói giấy màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroin. Sau đó các anh công an đã lập biên bản và đưa Q về trụ sở làm rõ

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Q do Q không biết nhân thân lai lịch do đó Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh, làm rõ và xử lý.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận L đã xác minh và làm rõ nguồn gốc chiếc xe máy Symax BKS: 89K2 - 1013, số khung 017152, số máy: 0020701 tạm giữ của Q, kết quả xác minh xác định chiếc xe máy trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Nguyễn Chiến Th – SN: 1985, HKTT:1A ngõ H, phường Tr, quận Đ, Hà Nội. Ngày 18/09/2017, chị Th cho Q  mượn chiếc xe máy trên nhưng không biết Q sử dụng xe máy đi mua ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận L đã ra quyết định xử lí vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Chiến Th chiếc xe máy trên. Chị Th đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 308/CT-VKS ngày 02/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận L đã truy tố Phạm Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Phạm Văn Q đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự nên giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 194; điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 41; Điều 33 của Bộ luật hình sự 1999 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015;

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Q mức án từ 24 đến 26 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền; Tịch thu, tiêu hủy vật chứng là 0.395 gam Heroin, trả lại bị cáo 01 (Một) điện thoại OPPO màu trắng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng đề nghị tạm giữ lại 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Phạm Văn Q trình bầy lời nói sau cùng: Do bị cáo là người có trình độ 6/12 nhận thức pháp luật có nhiều hạn chế, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã ăn năn hối hận và mong muốn được sự khoan hồng để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

- Về hành vi , quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19h15’, ngày 18/09/2017, tại khu vực trước cửa nhà số 1, phường Đ, quận L, Hà Nội Phạm Văn Q có hành vi tàng trữ trái phép 0,395 gam Heroin mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Ph, quận L, Hà Nội bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo Phạm Văn Q đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận L đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Bị cáo khẳng định mua gói Heroin mục đích sử dụng, không có mục đích nào khác. Bị cáo nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, tiếp tay cho tệ nạn và các tội phạm về ma tuý đang gia tăng trong xã hội, làm mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần thiết phải xử lý tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, nhân thân có tiền án, tiền sự, trình độ văn hóa 6/12 nên có hạn chế về nhận thức pháp luật nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p Khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên tha miễn hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Đại diện VKS đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của HĐXX. Về xử lý vật chứng: Đề xuất của Viện kiểm sát tại phiên tòa về xử lý tang vật của vụ án có căn cứ nên chấp nhận. Tịch thu, tiêu hủy vật chứng là 0.395 gam heroin. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động OPPO màu trắng. Đối với chiếc xe máy Symax BKS 89K2-1013 tạm giữ của Q, kết quả xác minh xác định chiếc xe máy trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Nguyễn Chiến Th. Ngày 18/09/2017, chị cho Q  mượn chiếc xe máy trên để Q đi có việc. Chị Th không biết Q sử dụng xe máy vào việc đi mua và tang trữ ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận L đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Nguyễn Chiến Th chiếc xe máy trên là có căn cứ. Chị Th đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác về dân sự nên

HĐXX không đặt vấn đề giải quyết. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của HĐXX.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Q do Q khai không biết nhân thân lai lịch do đó Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận L chưa có điều kiện để xác minh làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp, có căn cứ nên HĐXX không giải quyết.

- Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội; Buộc bị cáo Phạm Văn Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố

Bị cáo Phạm Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 194; điểm p Khoản 1 và khoản 2 của Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự 1999.

- Nghị quyết số 41/2017/QH14 về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015.

Xử phạt: Phm Văn Q (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/8/2017.

2. Về tang vật: Áp dụng Khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự

- Tịch thu, tiêu hủy 0.395 gam Heroin. (Hiện lưu giữ tại kho tang vật Công an quận L– Hà Nội theo biên ban giao nhận vật chứng ngày 17/10/2017)

- Trả lại bị cáo 01 (Một) điện thoại OPPO màu trắng (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/11/2017 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 06/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận L)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự:

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo Phạm Văn Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

426
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 299/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:299/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;