Bản án 296/2017/HNGĐ-ST ngày 22/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN. TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 296/2017/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 22/9/2017 tại Hội trường TAND thị xã Điện Bàn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 240/2017/TLST-HNGĐ, ngày 26/7/2017 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2017/QĐST- HNGĐ, ngày 28/8/2017 giữa các đương sự:

1/Nguyên đơn: Bà Lê Thị Như N - Sinh năm 1991 (có mặt) Địa chỉ: Thôn G, xã Đ, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

2/Bị đơn: Ông Trần Văn P - Sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/7/2017 và các lời khai tại Tòa nguyên đơn bà Lê Thị Như N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Như N và ông Trần Văn P kết hôn vào ngày 14/12/2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, thị xã Điện Bàn, kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được sự đồng ý của hai bên gia đình.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do ông P không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con, chơi bời leo lỏng, thường xuyên cờ bạc, số đề gây nợ nần chồng chất, gia đình đã nhiều lần trả nợ cho ông P, không dừng lại ở đó ông P còn rượu chè, say sưa về nhà kiếm chuyện gây gỗ, đánh đập bà N. Bà N đã nhiều lần động viên ông P nên tu chí làm ăn để lo cho vợ, con nhưng ông P không nghe mà còn đánh đập bà N và bà N đã bồng con về nhà cha, mẹ ruột sống từ tháng 01/2017 đến nay, trong thời gian sống ly thân ông P không một lần đến thăm vợ, con mà còn điện thoại chửi bới thậm tệ, xúc phạm bà N nặng nề. Vợ chồng không còn tình cảm, không thể kéo dài cuộc sống chung nên bà N yêu cầu ly hôn ông P.

Về con chung: Có 1 con Trần Hoàng H – Sinh ngày 13/6/2013 

Con chung sống cùng bà N từ nhỏ đến nay, khi ly hôn bà N yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng).

Tài sản chung và nợ chung: Không có

Bị đơn ông P đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, giao nhận bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, ông P từ chối làm việc với Tòa án và không trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên không có lời khai của ông P trong hồ sơ vụ án.

Tóm tắc ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

+ Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử được phân công giải quyết và xét xử vụ án đã thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn ông Trần Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.

+ Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử cho bà Lê Thị Như N được ly hôn ông Trần Văn P, giao con Trần Hoàng H cho bà N nuôi dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con đề nghị HĐXX xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Thị Như N yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung đối với ông Trần Văn P, căn cứ Khoản 1, Điều 28, Điểm a, Khoản 1, Điều 35 BLTTDS tranh chấp ly hôn và nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện. Ông Trần Văn P hiện nay cư trú tại xã Đ, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 39 BLTTDS thì vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Khoản 2, Điều 227 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

[3]  Xét về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Như N và ông Trần Văn P kết hôn vào ngày 14/12/2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, thị xã Điện Bàn, kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Như N và ông Trần Văn P là hợp pháp, nên được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân theo bà N khai là do ông P không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con, chơi bời leo lỏng, thường xuyên cờ bạc, số đề gây nợ nần chồng chất, không dừng lại ở đó ông P còn rượu chè, say sưa về nhà kiếm chuyện gây gỗ đánh đập vợ nhiều lần, bà N bồng con về nhà cha, mẹ sống từ tháng 01/2017 đến nay và yêu cầu ly hôn ông P. Quá trình giải quyết vụ án ông P cố tình vắng mặt không có lời khai của ông P trong hồ sơ vụ án nên không xác định được yêu cầu của ông P và do ông P vắng mặt nên Tòa án không hòa giải để động viên vợ, chồng về đoàn tụ chung sống, tuy nhiên qua điều tra, xác minh thì được biết trong quá trình chung sống ông P không lo làm ăn, thường xuyên đánh đập vợ. Vợ chồng bà N không còn tình cảm, tin tưởng, tôn trọng nhau và thực tế không sống chung với nhau từ tháng 1/2017 đến nay, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, yêu cầu ly hôn của bà N là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận xử cho bà N được ly hôn với ông P phù hợp với Khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Trần Hoàng H – Sinh  ngày 13/6/2013. Bà N có nguyện vọng được nuôi con chung. Xét yêu cầu của bà N thấy rằng: Bà N hiện nay là giáo viên có việc làm và thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để nuôi con, cháu H còn nhỏ cần được người mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng. Hơn nữa trong thời gian vợ chồng sống ly thân cháu H đã sống cùng bà N và được bà N chăm sóc, nuôi dưỡng rất tốt. Đối với ông P trong quá trình giải quyết vụ án, ông không đến Tòa để trình bày ý kiến của mình, điều đó chứng tỏ ông P không có yêu cầu đối với vấn đề nuôi con chung. Do đó để đảm bảo ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho con, đồng thời giữa nguyên môi trường sống của con chưa thành niên, HĐXX cần phải giao cháu H cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Bà N yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ. Xét yêu cầu của bà N thấy rằng: Do không có lời khai của ông P nên không xác định được ý kiến của ông P như thế nào đối với yêu cầu của bà N, tuy nhiên theo Khoản 2, Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “ Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con…”. Bà N yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung là đúng quy định của pháp luật và mức yêu cầu 2.000.000đ mỗi tháng là phù hợp. Do đó để đảm bảo lợi ích về mọi mặt cho con và đáp ứng nhu cầu chi phí sinh hoạt hàng ngày của con chưa thành niên HĐXX buộc ông P phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hằng tháng là 2.000.000đ. Thời hạn cấp dưỡng được tính từ tháng 10/2017 đến khi Trần Hoàng H đủ 18 tuổi.

Ông P được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N khai không có, tuy nhiên không có lời khai của ông P nên chưa xác định được vợ, chồng bà N có tài sản chung và nợ chung hay không. Do đó HĐXX tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này các đương sự có yêu cầu giải quyết tài sản chung và nợ chung.

[6] Về án phí: Căn cứ Luật phí và lệ phí, Điểm a, Khoản 5, Điểm a, Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và Điều 4, Điều 147 BLTTDS thì bà N phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Ông P phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, Điều 28, Điểm a, Khoản 1, Điều 35, Điểm a, Khoản 1, Điều 39, Khoản 2, Điều 227, Khoản 4, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Khoản 1, Điều 51, Khoản 1, Điều 56, Điều 57, 58, 81, 82, 83, 107, 110, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình, Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự, Luật Phí và Lệ phí, Điểm a, Khoản 5, Điểm a, Khoản 6,  Điều  27  Nghị  quyết  số: 326/2016/UBTVQH14,  ngày 30/12/2016  của  Ủy  ban thường vụ Quốc Hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Như N đối với ông Trần Văn P về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1/ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lê Thị Như N và ông Trần Văn P.

2/ Về con chung: 01 con chung

Giao con Trần Hoàng H – Sinh ngày 13/6/2013 cho bà Lê Thị Như N trực tiếp, trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến tuổi trường thành (Trần Hoàng H hiện nay đang sống cùng bà Lê Thị Như N).

Buộc ông Trần Văn P phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung được thực hiện định kỳ hằng tháng là: 2.000.000đ (hai triệu đồng). Thời hạn cấp dưỡng được tính kể từ tháng 10/2017 đến khi Trần Hoàng H đủ 18 tuổi.

Ông Trần Văn P được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở.

3/Về án phí: Bà Lê Thị Như N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000đ, theo biên lai thu số 0008547, ngày 26/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Bà Lê Thị Như N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Trần Văn P phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 296/2017/HNGĐ-ST ngày 22/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:296/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;