TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 29/2024/HS-ST NGÀY 25/04/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 25 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2024/TLST- HS ngày 03 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2024/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Sầm Văn Th. Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 25/12/1987 tại huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản Ph, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Sầm Văn Th và bà Sầm Thị Ph; Vợ: Lo Thị G, con: 01 người (sinh năm 2010); Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 27/3/2019 Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Nhân thân: Ngày 26/6/2012 Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Tạm giam: Từ ngày 13/01/2024 đến nay (Có mặt)
+ Người bào chữa cho bị cáo Sầm Văn Th: Ông Nguyễn Thái Quỳnh – Trợ giúp viên pháp lý, Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An (Có mặt)
+ Bị hại: Anh Nguyễn Văn Th(đã chết)
+ Đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Văn Th:
1. Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1965 – là bố anh Th Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam (Có mặt)
2. Bà Thạch Thị T, sinh năm 1969 – là mẹ anh Th Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam (Vắng mặt)
3. Chị Hoàng Thị Hoài Th, sinh năm 1994 – là vợ anh Th Nơi cư trú: Khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Có mặt)
4. Cháu Nguyễn Hoàng Tuệ A, sinh ngày 21/8/2023 Nơi cư trú: Khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Có mặt) Đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Hoàng Tuệ A: Chị Hoàng Thị Hoài Th, sinh năm 1994 – là mẹ cháu Tuệ A Nơi cư trú: Khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Có mặt)
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1998 Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam (Có mặt)
- Ông Quang Văn Ph, sinh năm 1974 Nơi cư trú: Bản N, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt)
+ Người làm chứng:
- Anh Cao Anh T, sinh năm 1985 Nơi cư trú: Bản B, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt)
- Anh Quang Văn C, sinh năm 1997 Nơi cư trú: Bản N, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 14/10/2023, anh Nguyễn Văn Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 90B3-121.xx đi trên đường theo hướng từ xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp xuống xã Thọ Hợp, huyện Quỳ Hợp . Khi đến Km 12+870, Quốc lộ 48C, thuộc khối 11 thị trấn Quỳ Hợp, huyện Qu ỳ Hợp, thấy phía trước cùng chiều có xe ô tô biển kiểm soát 37C-452.xx do anh Cao Anh Tđiều khiển đang bật xi nhan để chuyển hướng chuẩn bị rẽ sang bên trái đường nên anh Th điều khiển xe đi chậm lại. Lúc này bị cáo Sầm Văn Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 37N1-383.xx chở anh Quang Văn C đang di chuyển cùng chiều phía sau, do điều khiển xe thiếu chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước nên Th đã điều khiển xe mô tô va vào phía sau xe mô tô do anh Th điều khiển làm cả 02 xe mô tô và người ngã xuống đường. Sau khi bị ngã, xe mô tô do anh Th điều khiển đã va vào Th lốp sau bên trái xe ô tô của anh Tuấn đang điều khiển. Hậu quả Th và anh Th bị Th, 2 xe mô tô bị hư hỏng. Anh Th sau đó được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu nghị đa khoa tỉnh Nghệ An, đến ngày 18/10/2023 anh Th tử vong.
Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 14/10/2023 phản ánh: Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là Km 12 + 870m, Quốc lộ 48C, thuộc khối 11, thị trấn Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Mặt đường rải nhựa tương đối bằng phẳng rộng 15,6m, đường có vạch sơn đứt màu vàng chia đôi đường, mỗi bên nửa đường có vạch sơn đứt màu trắng chia đôi làn đường, không có phần đường dành cho người đi bộ, trong hai bên mép đường có lề bằng gạch rộng 2,5m. Đường có trục Đông - Tây, hướng Đông đi xã Thọ Hợp, hướng Tây đi xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp. Đường thẳng tầm nhìn không bị hạn chế.
Các vị trí tại hiện trường được xác định như sau:
Vị trí số 1, 2: Tổ hợp vết cày trượt không liên tục; Vị trí số 3: Xe mô tô biển kiểm soát 90B3-121.xx; Vị trí số 4: Xe ô tô biển kiểm soát 37C-452.xx; Vị trí số 5: Vết máu và mũ bảo hiểm; Vị trí số 6: Xe mô tô biển kiểm soát 37N1-383.xx.
Lấy mốc là trụ cổng phía Tây của Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quỳ Hợp, cách điểm đầu tổ hợp vết cày tại vị trí số 01 là 9,7m phía Nam, mép đường chuẩn là mép đường phía Nam. Tại hiện trường xác định các vị trí như sau:
+ Vị trí số 01: Là tổ hợp vết cày trượt không liên tục trên mặt đường làm bung đá nhựa đường, tổ hợp có hướng từ Tây sang Đông, đoạn cuối tổ hợp chạy dạng vòng cung từ Tây Nam sang Đông Bắc. Tổ hợp dài 04m, nơi rộng nhất của tổ hợp là 0,8m, tổ hợp gồm nhiều vết kích thước khác nhau từ 0,5cm đến 2,2cm. Điểm đầu tổ hợp cách mép đường chuẩn 06m về phía Bắc. Điểm cuối tổ hợp kết thúc ngay dưới vị trí nằm của mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx.
+ Vị trí số 02: Là tổ hợp vết cày trượt không liên tục trên mặt đường làm bung đá nhựa đường, tổ hợp có hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc. Tổ hợp dài 10,5m, nơi rộng nhất của tổ hợp là 0,78m, tổ hợp có nhiều vết kích thước khác nhau từ 0,5cm đến 03cm. Điểm đầu tổ hợp cách mép đường chuẩn 07m về phía Bắc, cách điểm đầu tổ hợp vết cày trượt vị trí số 01 là 1,3m về phía Bắc. Điểm cuối tổ hợp kết thúc ngay dưới vị trí nằm của mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx.
+ Vị trí số 03: Là xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx, xe nằm ngả nghiêng về bên trái, đầu xe quay hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam. Tâm trục trước cách mép đường chuẩn 7,5m về phía Bắc. Tâm trục sau cách mép đường chuẩn 6,4m về phía Bắc, cách tâm trục sau bên trái xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx là 0,8m về phía Bắc.
+ Vị trí số 04: Là xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx, đầu xe hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam, Tâm trục trước bên phải cách mép đường chuẩn 3,6m về phía Bắc. Tâm trục sau bên phải cách mép đường chuẩn 3,3m về phía Bắc.
+ Vị trí số 05: Là vết máu dạng máu loang trên mặt đường có kích thước 0,7x 0,36 (m), tâm vết máu nằm ở sát với tâm trục trước bên phải của xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx, cách tâm trục trước bên trái xe ô tô này 30cm về phía Tây, cách mép đường chuẩn 6,5m về phía Bắc. Tại đây có 01 chiếc mũ bảo hiểm màu đỏ trắng.
+ Vị trí số 06: Là xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx, xe nằm ngả nghiêng bên trái, đầu xe quay hướng Tây, đuôi xe quay hướng Đông. Tâm trục trước cách mép đường chuẩn 8,9m về phía Bắc, cách tâm trục trước bên trái xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx là 5,7m về phía Bắc. Tâm trục sau cách mép đường chuẩn 9,5m về phía Bắc.
Kết luận giám định số 317/KL-KTHS (DVCH), ngày 14/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An xác định:
(1) Ngay trước thời điểm xảy ra tai nạn, xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx và xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx di chuyển cùng chiều trên đường Quốc lộ 48C, theo hướng từ xã Châu Quang đi xã Thọ Hợp; Xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx ở trên đường Quốc lộ 48C, đầu xe quay hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam.
(2) Xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx có va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx.
-Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx và xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx:
+ Trên hiện trường: Ở phần đường bên phải đường Quốc lộ 48C theo hướng từ xã Châu Quang đi xã Thọ Hợp.
+ Trên phương tiện: Trên xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx: Ở phần phía sau bên trái xe; Trên xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx: Ở phần phía trước bên phải xe.
- Tư thế khi va chạm: Mặt lăn các lốp của xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx và xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx đang tiếp xúc với mặt đường (02 xe mô tô chưa ngã đổ trên mặt đường).
(3) Không phát hiện thấy dấu vết va chạm giữa xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx với xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx.
(4) Xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx có va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx.
- Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx và xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx:
+ Trên hiện trường: Ở phần đường bên phải đường Quốc lộ 48C theo hướng từ xã Châu Quang đi xã Thọ Hợp.
+ Trên phương tiện: Trên xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx: Ở Th lốp phía ngoài lốp sau bên trái xe; Trên xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx: Ở ốp nhựa đầu xe.
- Tư thế khi va chạm: Mặt lăn các bánh lốp của xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx đang tiếp xúc với mặt đường, xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx đã ngã đổ nghiêng bên trái và trượt trên mặt đường.
(5) Không xác định được tốc dộ di chuyển của xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx, xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx và xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx ngay trước thời điểm xảy ra va chạm.
Biên bản khám phương tiện ngày 16/10/2023 thể hiện:
+ Đối với xe mô tô biển kiểm soát 90B-121.xx:
- Mặt ngoài bên trái ốp nhựa đầu xe có vùng vết cà trượt, mài mòn làm bong tróc sơn, làm sơ nhựa kích thước 14x19(cm), chiều hướng từ phải qua trái, từ trước ra sau.
- Mặt ngoài góc trên núm tròn tay côn có dấu vết cà trượt, mài mòn làm sáng kim loại kích thước 1,5x1,2(cm), chiều hướng từ phải qua trái, từ trước ra sau.
- Mặt ngoài phía trước núm tròn gắn ốc định vị tay lái bên trái có dấu vết cà trượt, mài mòn làm sơ nhựa, kích thước 2,6x1,6(cm), chiều hướng từ phải qua trái, từ trước ra sau.
- Mặt ngoài phía sau trục kim loại gắn ốc định vịtrục sau bên trái có dấu vết cà trượt, mài mòn làm sáng kim loại kích thước 1,9x1,9(cm), tại vị trí này có bám dính bụi đá đường, chiều hướng từ sau ra trước.
- Thanh kim loại gắn ốc để tăng xích của xe bị cong vênh đẩy lệch chiều hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới. Tâm vị trí cao cách mặt đất 25cm, tại góc ngoài cùng phía sau có bám dính chất màu đen dạng sơ cao su của xe liên quan.
- Đèn chiếu hậu bị nứt vỡ hoàn toàn phần ốp nhựa.
- Đèn xi nhan phía sau bên trái bị rời khỏi vị trí ban đầu, chỉ gắn với thân xe bằng dây điện.
- Mặt ngoài góc sau ốp nhựa thân xe bên trái có dấu vết cà trượt mài mòn làm sạch bụi, kích thước 12x3(cm). Tại vị trí này có bám dính chất màu trắng của xe liên quan, chiều hướng từ dưới lên trên, từ sau ra trước, tâm cao cách mặt đất 76cm.
- Mặt ngoài tại vị trí chính giữa ốp nhựa thân xe có dấu vết cà trượt mài mòn làm bong tróc sơn, làm sơ nhựa, kích thước 20x7(cm), chiều hướng từ dưới lên trên, từ sau ra trước, tâm cao cách mặt đất 65cm.
+ Đối với xe mô tô biển kiểm soát 37N1-383.xx:
- Góc ngoài phía trước bên phải đầu xe bị cà trượt, mài mòn làm bong tróc sơn, làm sơ nhựa, kích thước 20x15(cm) chiều hướng từ trái qua phải, từ trước ra sau.
- Góc ngoài phía trước tay côn có dấu vết cà trượt, mài mòn làm sáng kim loại, kích thước 1,5x1,1(cm), chiều hướng từ trái qua phải, từ trước ra sau làm toàn bộ thân của phanh tay này bị đẩy lệch chiều hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới.
- Đệm cao su tay lái bên phải bị đứt rách, tại vị trí này có dấu vết cà trượt, mài mòn làm sơ cao su, kích thước 3x2,8(cm), chiều hướng từ trái qua phải, từ trên xuống dưới.
- Mặt trước góc bên phải ốp mặt nạ có dấu vết cà trượt, mài mòn làm bong tróc sơn, làm sơ nhựa, kích thước 31x19(cm). Chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên, từ trái sang phải. Tại vị trí này có bám dính chất màu trắng. Điểm thấp nhất cách mặt đất 76cm, điểm cao nhất cách mặt đất 96cm.
- Chắn bùn bánh trước bị nứt vỡ, kích thước10x10(cm), tại vị trí ốp bảo vệ ống giảm xóc phía bên phải. Tâm vị trí cao cách mặt đất 60cm. Tại góc phía trước bên phải chắn bùn này có dấu vết cà trượt, mài mòn làm bong tróc sơn, làm xơ nhựa, kích thước 15x5,5(cm). Tâm vết cao cách mặt đất 60cm.
- Cánh yếm bên phải bị bung chốt định vị, tại góc phía trước tại vị trí bảo vệ xung quanh đèn xi nhan phía trước bên phải bị nứt vỡ, kích thước 25x14(cm) làm đèn xi nhan này bị gãy rời hẳn khỏi thân xe. Mặt ngoài cánh yếm nàycó dấu vết cà trượt, mài mòn làm bong tróc sơn, làm xơ nhựa, kích thước 30x18 (cm). Tâm vị trí này cao cách mặt đất 65cm, tại vị trí này có bám dính chất màu trắng.
- Lốp trước hết hơi, góc bên phải vành bánh này tại vị trí đối diện chân van có dấu vết nứt vỡ, kích thước 18x32(cm).
- Ống kim loại phía ngoài vị trí ốc định vị bên phải bánh trước bị đứt rách, kích thước 4x1,3(cm). Chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên. Tâm cao cách mặt đất 31cm. Tại vị trí này cso dấu vết cà trượt, bám dính chất màu đen của xe liên quan.
- Phanh chân bị bóp méo, gãy gập, chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên, từ phải qua trái làm bàn dẫm chân phanh bị ép sát vào lốc máy.
- Bàn để chân phía trước bên phải bị đứt gãy hoàn toàn rời khỏi thân xe. Tại phần kim loại còn lại gắn với thân xe có dấu vết cà trượt, mài mòn làm sáng kim loại, kích thước 3,4x1,9(cm), chiều hướng từ trước ra sau.
+ Đối với xe ô tô biển kiểm soát 37C-452.xx:
- Mặt ngoài bánh sau bên trái có dấu viết cà trượt mài mòn làm sạch bụi, kích thước 7x5,5(cm), chiều hướng từ tâm trục ra ngoài, tâm vết cách vị trí tới chân van 57cm, theo chiều tịch tiến của kim đồng hồ.
Biên bản khám nghiệm tử thi anh Nguyễn Văn Th ngày 18/10/2023 phản ánh:
- Xây xát da không liên tục mặt trước cẳng chân phải kích thước 14x17(cm), bề mặt đóng vảy khô.
- Xây xát da tụ máu mặt ngoài cổ chân và bàn chân trái, kích thước 10x3(cm) bề mặt đóng vảy khô. Hai tay, hai chân không gãy xương.
- Xây xát da tụ máu vùng thái dương, đỉnh, chẩm trái cách đường chân tóc trái 08cm, cách đỉnh vành tai trái 03cm kích thước 16x7(cm) bề mặt đóng vảy.
- Xây xát da vùng thắt lưng trái sát bờ trên mỏng kích thước 11x6(cm) hướng từ trên xuống dưới.
- Tím da, bong trượt thượng bì vùng cụt kích thước 8x7(cm).
- Vết mổ vùng trán, đỉnh chẩm, thái dương phải tổng chiều dài 36cm được khâu bằng các mũi chỉ rời, bờ mép phù, qua vết mổ có tổ chức màu trắng (nghi tổ chức não) thoát ra ngoài. Khuyết xương hộp sọ vùng trán, đỉnh, thái dương chẩm phải, diện đo được 26x18(cm).
- Xây xát, rách da vùng trán phải, kích thước 5x4,5(cm), được khâu bằng các mũi chỉ rời hướng từ phải sang trái.
- Hố mắt hai bên bầm tím, kết mạc phù, nhãn cầu không tổn Th. Toàn bộ da đều phù.
- Mũi, miệng, tai khô - Kiểm tra cổ, ngực, chậu vững, tứ chi không biến dạng.
- Da vùng cổ, ngực, bụng, lưng không tổn Th.
Tiến hành cắt chỉ kiểm tra vết mổ: Khuyết xương hộp sọ vùng đỉnh, thái dương phải. Chảy máu màng mềm lan tỏa tổ chức não. Tổ chức não vùng vết mổ dập nát, tụ máu, phù nề thoát một phần ra ngoài qua vết mổ.
Kết luận giám định pháp y về tử thi số 861/KL-KTHS ngày 15/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận:
+ Kết quả khám nghiệm:
- Các vết xây xát, rách da, bầm tím, tụ máu tại vùng đầu, mặt, lưng, mông, hai chân.
- Vết rạch da phẫu thuật vùng đầu được khâu kín. Khuyết xương hộp sọ vùng đỉnh- thái dương phải, chảy máu màng mềm lan tỏa bán cầu đại não phải; tổ chức não dập nát, tụ máu, phù nề thoát một phần ra ngoài qua vết mổ.
+ Kết luận: Nguyên nhân dẫn đến tử vong của anh Nguyễn Văn Thdo chấn Th sọ não điều trị không hồi phục.
Đối với bị cáo Sầm Văn Th, ngay sau khi xảy ra tai nạn, bị cáo Th được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An. Quá trình cấp cứu, Bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An đã tiến hành xét nghiệm nồng độ Ethanol (Cồn) trong máu của bị cáo Th, kết quả xét nghiệm là 43.3mmol/L, tương ứng với 199mg/100mL (quy đổi theo Quyết định số 933/QĐ-BYT ngày 23/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy định về đo nồng độ cồn (ETHANOL) trong máu áp dụng trong các bệnh viện, trong đó hệ số chuyển đổi là: mmol/L x 4,608 = mg/100mL).
Kết luận định giá tài sản số 131 ngày 16/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Quỳ Hợp kết luận:
- Thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại Exciter, mang biển kiểm soát 90B3 – 121.xx là 1.600.000 đồng.
- Thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại Exciter, mang biển kiểm soát 37N1 – 383.xx là 3.242.000 đồng.
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu đồ vật; xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra, Công an huyện Quỳ Hợp tạm giữ gồm: 01 xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx, 01 xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx, 01 xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx.
Quá trình điều tra xác định, xe ô tô biển kiểm soát 37C – 452.xx thuộc sở hữu của anh Cao Anh T, xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn Th, xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx thuộc sở hữu của ông Quang Văn Phi, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường chi phí cấp cứu, tiền xe đi lại trong quá trình đưa anh Th đi cấp cứu, tiền công người chăm sóc, chi phí mai táng, tiền tổn thất tinh thần với tổng số tiền 168.141.923 đồng. Ngoài ra còn yêu cầu bị cáo Th phải cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Hoàng Tuệ A mỗi tháng 1.500.000,đ cho đến khi cháu Tuệ A đủ 18 tuổi, trưởng Th. Quá trình điều tra, Bị cáo Th đã tác động gia đình bồi thường được số tiền 60.000.000,đ. Trước khi mở phiên tòa, bị cáo Th và đại diện hợp pháp của bị hại thống nhất thỏa thuận bị cáo Th phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại tổng cộng số tiền 140.000.000,đ, khấu trừ số tiền 60.000.000,đ gia đình bị cáo Th đã tự nguyện bồi thường, nay bị cáo Th có trách nhiệm bồi thường tiếp số tiền 80.000.000,đ cho đại diện hợp pháp của bị hại. Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường tiền cấp dưỡng nuôi cháu Tuệ A.
Anh Nguyễn Văn Th – Chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B3 – 121.xx yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường chi phí sửa chữa xe là 2.000.000,đ. Tại phiên tòa bị cáo Th nhất trí bồi thường chi phí sửa chữa xe với số tiền 2.000.000,đ như yêu cầu của anh Th.
Bản cáo trạng số 28/CT-VKSQH ngày 02/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, truy tố bị cáo Sầm Văn Th về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Sầm Văn Th từ 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại. Buộc bị cáo phải bồi thiệt hại tính mạng cho anh Th, bao gồm các khoản tiền chi phí cho việc cấp cứu, tiền xe đi lại, tiền công người chăm sóc, tiền mai táng, tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tổng cộng 140.000.000,đ. Khấu trừ số tiền 60.000.000,đ gia đình bị cáo Th đã tự nguyện bồi thường, bị cáo Th phải bồi thường tiếp số tiền 80.000.000,đ cho đại diện hợp pháp của bị hại. Chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo Th và anh Th, bị cáo Th có trách nhiệm bồi thường chi phí sửa chữa xe cho anh Th số tiền 2.000.000,đ; Về án phí: Bị cáo Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Người bào chữa cho bị cáo Sầm Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo bởi các yếu tố: Bị cáo sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Mặc dù gia đình có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn nhưng đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại; Gia đình bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt Sầm Văn Th từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại. Buộc bị cáo phải bồi thiệt hại tính mạng cho anh Th tổng cộng số tiền 140.000.000,đ. Khấu trừ số tiền 60.000.000,đ gia đình bị cáo Th đã tự nguyện bồi thường, bị cáo Th phải bồi thường tiếp số tiền 80.000.000,đ cho đại diện hợp pháp của bị hại. Chấp nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo Th và anh Th, bị cáo Th có trách nhiệm bồi thường chi phí sửa chữa xe cho anh Th số tiền 2.000.000,đ.
Bị cáo Sầm Văn Th nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp và lời luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình, xin lỗi gia đình bị hại và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt; Về trách nhiệm dân sự: Giữa bị cáo và gia đình bị hại thống nhất bị cáo bồi thường cho gia đình bị hại tổng cộng số tiền 140.000.000,đ, gia đình bị cáo đã bồi thường được số tiền 60.000.000,đ, nay bị cáo còn phải bồi thường số tiền còn lại 80.000.000,đ, do đó đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và gia đình bị hại. Đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và anh Nguyễn Văn Th, bị cáo có trách nhiệm trả cho anh Th chi phí sửa chữa xe mô tô là 2.000.000,đ. Bị cáo không tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp.Đại diện hợp pháp của bị hại nhất trí như nội dung đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Thừa nhận giữa bị cáo và gia đình bị hại đã thống nhất thỏa thuận về bồi thường dân sự, hai bên thống nhất bị cáo phải bồi thường tổng cộng số tiền 140.000.000,đ cho gia đình bị hại, bao gồm các chi phí cho việc cấp cứu, tiền xe đi lại, tiền công người chăm sóc, tiền mai táng, tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Gia đình bị cáo đã bồi thường được số tiền 60.000.000,đ nay gia đình bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp số tiền còn thiếu 80.000.000,đ. Đại diện hợp pháp của bị hại không tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Anh Nguyễn Văn Th nhất trí như nội dung đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp tại phiên tòa. Thừa nhận giữa anh Th và bị cáo Th và đã thống nhất thỏa thuận để bị cáo Th bồi thường cho anh Th chi phí sửa chữa xe là 2.000.000,đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những chứng cứ xác định có tội:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập được tại hồ sơ vụ án; Căn cứ lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, đã có đủ cơ sở kết luận:
Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 14/10/2023 tại đoạn đường thuộc Km 12+870, Quốc lộ 48C, thuộc khối 11 thị trấn Quỳ Hợp, huyệ n Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, do điều khiển xe mô tô thiếu chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước nên bị cáo Sầm Văn Th đã điều khiển xe mô tô đâm vào sau xe mô tô của anh Nguyễn Văn Th đang đi cùng chiều. Sau khi bị ngã, xe mô tô do anh Nguyễn Văn Th điều khiển đã va vào Th lốp sau bên trái xe ô tô của anh Cao Anh T điều khiển đang đi cùng chiều. Hậu quả bị cáo Sầm Văn Th bị Th, anh Nguyễn Văn Th tử vong, 2 xe mô tô bị hư hỏng.
Hành vi trên của Sầm Văn Th đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm được quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự 2015.
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của bị cáo Sầm Văn Th là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng người bị hại. Lỗi gây ra tai nạn hoàn toàn thuộc về bị cáo, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác khi tham gia giao thông. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp tước đi tính mạng người bị hại, gây mất mát đau Th cho gia đình người bị hại mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây tâm lý xấu trong quần chúng nhân dân khi tham gia giao thông. Kết quả xét nghiệm nồng độ Ethanol (cồn) trong máu của Sầm Văn Th sau khi xảy ra tai nạn, cho thấy: Nồng độ Ethanol là 43.3mmol/L, tương ứng với 199mg/100mL, là vượt quá mức quy định. Do đó bị cáo phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại; Gia đình bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đó là các tình tiết cần áp dụng để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Do bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, nên cần áp dụng Điều 54 BLHS để xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, để bị cáo có cơ hội cải tạo, sớm hòa nhập làm ăn sinh sống tại địa phương.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường chi phí cấp cứu, tiền xe đi lại trong quá trình đưa anh Th đi cấp cứu, tiền công người chăm sóc, chi phí mai táng, tiền tổn thất tinh thần với tổng số tiền 140.000.000 đồng. Quá trình điều tra, Bị cáo Th đã tác động gia đình bồi thường được số tiền 60.000.000,đ. Tại phiên tòa, bị cáo Th chấp nhận bồi thường tiếp số tiền 80.000.000,đ. Xét thấy hai bên thoả thuận bồi thường hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, do đó cần công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại.
[5] Đối với với yêu cầu của anh Nguyễn Văn Th về việc yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường tiền sửa chữa xe mô tô bị hư hỏng là 2.000.000,đ. Tại phiên tòa, bị cáo Th chấp nhận bồi thường số tiền trên cho anh Th. Xét thấy hai bên thoả thuận bồi thường hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận để bị cáo Th bồi thường cho anh Th chi phí sửa chữa xe với tổng số tiền là 2.000.000,đ.
Ông Quang Văn Phi không yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường chi phí sửa chữa xe chiếc xe mô tô biển kiểm soát 37N1 – 383.xx, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Đối với xe ô tô biển kiểm soát 37C-452.xx do anh Cao Anh Tđiều khiển chuyển hướng sang trái đường là đúng quy định, không phải là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông nên không có căn cứ xử lý đối với anh Cao Anh T.
[7] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 37N1-383.xx do bị cáo Sầm Văn Th điều khiển, thuộc sở hữu của ông Quang Văn Ph, việc anh Quang Văn C (con trai ông Ph) tự ý lấy xe mô tô đi thì ông Quang Văn Ph không biết. Do đó không xem xét xử lý đối với ông Quang Văn Ph.
[8] Vật chứng vụ án:
Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳ Hợp tạm giữ một số vật chứng của vụ án và đã xử lý trả lại cho anh Cao Anh T01 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 37C-452.xx, trả lại cho anh Nguyễn Văn Th 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B3-121.xx, trả lại cho ông Quang Văn Phi 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 37N1-383.xx.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt Sầm Văn Th 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/01/2024.
2. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 591 Bộ luật Dân sự:
Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo Sầm Văn Th và đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Văn Th. Bị cáo Sầm Văn Th phải bồi thường thiệt hại tính mạng cho anh Nguyễn Văn Th, bao gồm các chi phí cho việc cấp cứu, tiền xe đi lại, tiền công người chăm sóc, tiền mai táng và tiền tổn thất tinh thần tổng cộng là 140.000.000,đ (một trăm bốn mươi triệu đồng). Khấu trừ số tiền 30.000.000,đ (ba mươi triệu đồng) gia đình bị cáo Sầm Văn Th đã bồi thường theo biên lai thu số 0007330 ngày 22/3/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp, số tiền 30.000.000,đ gia đình bị cáo Sầm Văn Th đã tự nguyện bồi thường ngày 25/4/2024, bị cáo Sầm Văn Th có trách nhiệm bồi thường tiếp số tiền 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) cho đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Văn Th.
Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo Sầm Văn Th và anh Nguyễn Văn Th, bị cáo Sầm Văn Th bồi thường chi phí sửa chữa xe cho anh Nguyễn Văn Th với tổng số tiền là 2.000.000,đ (hai triệu đồng).
2. Án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Sầm Văn Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng).
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, 03 người đại diện hợp pháp của bị hại, 01 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Vắng mặt 01 người đại diện hợp pháp của người bị hại, 01 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, 02 người làm chứng.
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.
Bản án 29/2024/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 29/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về