Bản án 29/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 29/2024/DS-ST NGÀY 19/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 407/2023/TLST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2023 về việc "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 662/2023/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 626/2023/QĐST-DS ngày 28 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trương Văn L, sinh năm 1981 Hộ khẩu thường trú: Số A, Tổ B, khóm N, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang Nơi ở hiện nay: Số 29 đường Lưu Hữu Phước, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang

2. Bị đơn: Ông Lê Văn M, sinh năm 1954;

Bà Đỗ Thị N, sinh năm 1954;

Cùng hộ khẩu thường trú: Số C đường H, Khóm G, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang Nơi ở hiện nay: Số A, Đường số B, Phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh.

Tại phiên tòa, ông Trương Văn L vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình làm việc, hòa giải, giải quyết vụ án, ông Trương Văn L trình bày:

Ông Trương Văn L có cho ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N mượn số tiền 180.000.000 đồng vào ngày 06 tháng 4 năm 2022 theo Biên nhận nợ ngày 06 tháng 4 năm 2022, thời hạn trả nợ là ngày 06 tháng 06 năm 2022, cho vay không có tính lãi. Khi đến hạn thanh toán nợ, ông L đã nhiều lần nhắc nhở trả nợ, ông M và bà N cũng nhiều lần cam kết nhưng không thực hiện việc trả nợ cho ông. Vì vậy, ông L khởi kiện yêu cầu ông M, bà N trả cho ông số tiền đã mượn là 180.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N: Không cung cấp ý kiến, tài liệu, chứng cứ.

Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Tại phiên tòa: Ông Trương Văn L vắng mặt và có đơn xin vắng mặt, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, ý kiến đã trình bày. Ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N đều vắng mặt và không cung cấp tài liệu chứng cứ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng mặt là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Ngày 06 tháng 4 năm 2022, ông L có cho ông M, bà N vay số tiền 180.000.000 đồng, các bên có ký kết giấy mượn tiền thể hiện ông M, bà N mượn tiền của ông L số tiền 180.000.000 đồng, đến ngày 06 tháng 6 năm 2022 phải trả hết số nợ. Hết thời hạn vay, ông M, bà N không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền 180.000.000 đồng nên ông L yêu cầu ông M, bà N thực hiện nghĩa vụ trả số tiền trên. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không trình bày ý kiến, không cung cấp chứng cứ. Do đó, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp thể hiện các bên xác lập hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn, không có lãi trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, do đó hợp đồng đương nhiên có hiệu lực và phát sinh quyền, nghĩa vụ các bên. Do ông M, bà N vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng nên ông L yêu cầu ông M, bà N trả số tiền 180.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại các Điều 463, 466, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả tiền vốn đã cho vay. Bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố L; hợp đồng được các bên xác lập và thực hiện tại thành phố L. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L.

[2] Về thủ tục tố tụng:

[2.1] Các đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông Trương Văn L vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt; ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2.2] Khi vay tiền, ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N cung cấp cho ông L địa chỉ của ông bà tại thành phố L, tỉnh An Giang và ghi nhận địa chỉ này trên Biên nhận nợ giữa các bên. Sau khi vay tiền, ông M và bà N thay đổi địa chỉ nhưng không thông báo cho ông L biết theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015. Khi Tòa án thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng và xác minh thì xác định ông M, bà N hiện có địa chỉ tại quận G, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố L, tỉnh An Giang. Vì vậy, ông M, bà N thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[3] Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn căn cứ vào các Biên nhận nợ ngày 06 tháng 4 năm 2022 để khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền đã cho vay là 180.000.000 đồng. Xét thấy: Biên nhận nợ ngày 06 tháng 4 năm 2022 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, hình thức và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự. Trong quá trình thực hiện các hợp đồng phía ông M, bà N đã không trả tiền vay đúng hạn là vi phạm nghĩa vụ của bên vay và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên cho vay. Trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án, ông M, bà N không cung cấp tài liệu, chứng cứ và ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Về lãi vay: Ông L xác định việc cho vay tiền là không có lãi, ông L cũng không yêu cầu ông M, bà N phải trả lãi vay. Ông M, bà N không cung cấp tài liệu, chứng cứ và ý kiến đối với việc vay tiền cho lãi, mức lãi suất, việc trả lãi. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận, để buộc ông M, bà N có nghĩa vụ trả cho ông L số tiền 180.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên ông L không phải chịu tiền án phí sơ thẩm. Ông M, bà N phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 26, 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40, các Điều 144, 147, 227, 228, 235, 238, 271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Các Điều 357, 463, 466, khoản 2 Điều 468 và khoản 1 Điều 470 Bộ luật Dân sự.

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn L đối với ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N;

Buộc ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N có nghĩa vụ trả cho ông Trương Văn L số tiền 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trương Văn L không phải chịu án phí sơ thẩm nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí phải nộp là 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0002530 ngày 17 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh An Giang.

Ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 9.000.000 đồng (chín triệu đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:29/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;