TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI TRỐN THUẾ
Ngày 26 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Tô Xuân H, sinh năm 1976, tại tỉnh Hòa Bình. Nơi ĐKHKTT: phố S, phường B, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: phố BS, phường B, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: cán bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 68-QĐ/UBKTĐUK ngày 29/6/2023 của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan và doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Xuân N và bà Trần Thị K (đã chết); có vợ là Hoàng Thị Ng (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
2. Đinh Thị V, sinh năm 1984, tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: số nhà …, ngõ …, đường Đ, phố Đ1, phường K1, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: cán bộ Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 69- QĐ/UBKTĐUK ngày 29/6/2023 của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan và doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Đạm (đã chết) và bà Phạm Thị C; có chồng là Nguyễn Sơn Tg (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: không.
Về nhân thân: Ngày 12/4/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N1, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định khởi tố bị can đối với Đinh Thị V về tội “Mua bán trái phép hóa đơn” quy định tại khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có
Nguyên đơn dân sự: Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H. Địa chỉ: đường T, phường K1, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn dân sự: Ông Mai Xuân L - Chi cục trưởng Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức C1, chức vụ: Đội trưởng Đội kiểm tra thuế số 1, Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H, Cục thuế tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Tô Xuân N, sinh năm 1952; nơi cư trú: phố BS, phường B, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).
- Bà Đinh Thị Hg, sinh năm 1991; nơi cư trú: số nhà …, ngõ …, đường P, phố 4, phường Th, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình (có mặt).
- Ông Đinh Văn Th, sinh năm 1982; nơi cư trú: tòa nhà K2, phố TH, phường K2, quận M, thành phố Hà Nội (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tô Xuân H sinh năm 1976, trú tại phố VS, phường B, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình là cán bộ văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình. Năm 2014 Tô Xuân H muốn thành lập doanh nghiệp để kinh doanh vé máy bay nhưng do đang công tác tại cơ quan nhà nước nên không trực tiếp làm giám đốc doanh nghiệp được. Do vậy, Tô Xuân H sử dụng giấy Chứng Minh nhân dân số 164110xxx của bố đẻ là ông Tô Xuân N, sinh năm 1952 trú tại phường B, thành phố N1 để làm thủ tục thành lập Doanh nghiệp tư nhân Xuân H Travel (sau chuyển đổi thành Công ty TNHH Xuân H Travel - viết tắt là Công ty Xuân H) mã số thuế: 2700708xx; địa chỉ trụ sở: số … đường NGT, phố TS, phường B, thành phố N1, tỉnh Ninh Bình, lấy tên Giám đốc là Tô Xuân N. Mọi giấy tờ, thủ tục thành lập doanh nghiệp, kê khai, báo cáo thuế đều do H trực tiếp làm và ký mạo danh chữ ký tên ông Tô Xuân N. Công ty Xuân H đăng ký, kê khai và nộp thuế theo quý tại Chi cục thuế thành phố N1 (nay là Chi cục thuế Khu vực thành phố N1 - H). Từ khi Công ty Xuân H Travel được thành lập đến tháng 10/2018 không phát sinh hoạt động kinh doanh do vậy không kê khai thuế.
Năm 2015, Tô Xuân H gặp và quen biết với Đinh Thị V, sinh năm 1984, trú tại số nhà …, ngõ …, đư ờ ng Đ , p h ố Đ1 , p h ư ờ ng K1 , t h à n h p h ố N1 , t ỉ n h N i n h B ì n h , là cán bộ Chi cục thuế thành phố N1. H nhờ V kê khai, báo cáo thuế định kỳ cho Công ty Xuân H.
Tháng 01 năm 2018, Đinh Thị V đặt in hóa đơn GTGT mẫu số 01GTKT3/001, ký hiệu XH/18P cho Công ty Xuân H tại Công ty TNHH MTV Văn Phòng Phẩm, mã số thuế 2700346310, địa chỉ trụ sở: số nhà …, ngõ …, đường LVT, phố …, phường Đ, thành phố N1.
Đinh Văn Th sinh năm 1982, trú tại phường K2, quận M, thành phố Hà Nội và Lê Mh sinh năm 1977, trú tại số …, phường Q, quận Tr, thành phố Hà Nội quen biết nhau thông qua các mối quan hệ xã hội. Th được Lê Mh thuê tìm pháp nhân để nhập khẩu xe ô tô dưới hình thức nhận quà biếu, tặng từ nước ngoài, mỗi một công ty Th sẽ được Lê Mh trả công 10.000.000 đồng.
Khoảng đầu năm 2018, Th gặp và quen biết với Đinh Thị Hg sinh năm 1991, trú tại trú tại số nhà …, ngõ …, đường P, phố .., phường Đ, thành phố N1 trong buổi gặp mặt của hội Gia tộc họ Đinh tại tỉnh Thái Bình. Sau đó Th nhờ Hg tìm doanh nghiệp để thực hiện việc nhập khẩu xe ô tô dưới hình thức nhận quà biếu, tặng từ nước ngoài để được trả tiền công, mọi thủ tục hồ sơ nhập khẩu và tiền nộp thuế đã có người lo, Giám đốc doanh nghiệp chỉ việc ký. Hg là cháu họ của Đinh Thị V và biết V công tác trong ngành thuế, quen biết nhiều doanh nghiệp nên Hg nhờ V tìm doanh nghiệp giúp Th. V đã hỏi ý kiến Tô Xuân H về việc sử dụng danh nghĩa Công ty Xuân H để làm thủ tục nhập khẩu xe ô tô từ nước ngoài dưới hình thức nhận quà biếu, tặng để nhận tiền công, H đồng ý.
Sau đó Hg thông báo cho Th về việc đã tìm được công ty để nhập khẩu xe, Th điện thoại thông tin lại cho Lê Mh, Lê Mh chuyển cho Th bộ hồ sơ về thủ tục nhập khẩu xe ô tô và 25.000.000 đồng tiền công tìm được doanh nghiệp nhập khẩu xe. Th giữ lại cho mình 10.000.000 đồng theo thỏa Thn với Lê Mh;
15.000.000 đồng còn lại Th chuyển cùng bộ hồ sơ nhập khẩu xe bằng xe khách từ Hà Nội về Ninh Bình cho Hg. Hg nhận rồi chuyển cho V số tiền 15.000.000 đồng tiền công giới thiệu và hồ sơ nhập khẩu xe. V giữ lại 15.000.000 đồng cho bản thân, không báo cáo với H về số tiền này và chuyển bộ hồ sơ cho Tô Xuân H. Sau khi nhận được bộ hồ sơ, H đã ký vào ''Đơn xin cấp phép nhập khẩu xe ô tô không nhằm mục đích tHg mại'' số 001/2018/CV ngày 22/10/2018 và các tài liệu kèm theo dưới tên ông Tô Xuân N, đóng dấu Công ty Xuân H để làm thủ tục nhập khẩu 01 xe ô tô nhãn hiệu Mercedes - Benz G63 AMG, 05 chỗ; số khung WDB4632761X301530; dung tích xi lanh 4.0L; chưa qua sử dụng, dưới hình thức nhận quà tặng của Công ty AVANGARD E. K SIERICHSTRASSE 222230 HAMBURG (địa chỉ tại Đức). Sau đó H đưa bộ hồ sơ trên cho V, V chuyển cho Hg, Hg chuyển qua xe khách từ Ninh Bình lên Hà Nội cho Th, Th nhận và chuyển lại cho Lê Mh.
Ngày 22/10/2018, Đinh Thị V làm thủ tục thông báo phát hành hóa đơn GTGT cho Công ty Xuân H để sẵn sàng cho việc xuất hóa đơn khi bán xe.
Ngày 23/10/2018 Cục Hải quan Hà Nam Ninh đã cấp cho Công ty Xuân H Travel Giấy phép nhập khẩu số 1734/NK-KNMĐTM đối với xe ô tô nêu trên. Ngày 25/10/2018, Công ty Xuân H Travel mở tờ khai nhập khẩu xe ô tô nêu trên tại Chi cục Hải Quan cửa khẩu Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Mh), trong đó giá trị xe nhập khẩu: 2.448.607.335 đồng; Từ ngày 05/11/2018 đến ngày 30/01/2019, Công ty Xuân H Travel đã nộp vào ngân sách Nhà nước với tổng số tiền là 5.074.248.980 đồng, gồm các loại thuế:
Thuế nhập khẩu: 1.150.845.447 đồng;
Thuế tiêu thụ đặc biệt: 3.239.507.504 đồng; Thuế giá trị gia tăng: 683.896.029 đồng;
Toàn bộ hồ sơ nhập khẩu, bán xe ô tô trên, việc liên hệ với Cục Hải quan Hà Nam Ninh xin giấy phép nhập khẩu và mở tờ khai, nộp thuế khâu nhập khẩu đều do Lê Mh làm sẵn, đưa cho Th, Th chuyển cho Hg, Hg chuyển cho V, V chuyển cho Tô Xuân H ký sau đó chuyển ngược lại cho Lê Mh. Do vậy Th, Hg, V và H đều không biết quá trình Lê Mh thực hiện những công việc trên như thế nào.
Sau khi xe ô tô nhập khẩu được thông quan, Đinh Văn Th gọi điện thoại cho Đinh Thị V về việc trả tiền nộp thuế và tiền công xuất hóa đơn bán xe. Qua tính toán của V cũng như được sự đồng ý của H, V yêu cầu Th trả cho Công ty Xuân H 400.000.000 đồng bao gồm tiền nộp thuế và tiền công xuất hóa đơn bán xe. Th đã điện thoại vào báo cáo lại với Lê Mh, Lê Mh đồng ý.
Ngày 28/01/2019, Th chuyển trước số tiền 200.000.000 đồng cho V qua tài khoản số 12210000430199 của Th mở tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Thành (Hà Nội) đến số tài khoản 48310000089373 của V mở tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Ninh Bình.
Ngày 29/01/2019, Đinh Văn Th gửi nội dung thông tin khách hàng, giá tiền bán xe qua zalo cho Đinh Thị Hg để Hg chuyển cho V viết hóa đơn GTGT (bản giấy) bán xe ô tô mà Công ty Xuân H nhập khẩu. Căn cứ vào thông tin Th gửi, V đã viết hóa đơn GTGT bản giấy số 0000003, ngày 29/01/2019 của Công ty Xuân H với nội dung; Công ty Xuân H bán xe ô tô được tặng cho ông Võ Ngọc Thn, địa chỉ tại tổ …, phường HK, quận L, thành phố Đà Nẵng, với giá 7.181.818.182 đồng, thuế GTGT là 718.181.818 đồng, tổng giá trị thanh toán là 7.900.000.000 đồng. Sau đó, Đinh Thị V đưa cho Tô Xuân H ký tên ông Tô Xuân N và đóng dấu Công ty Xuân H vào hóa đơn. Sau đó V đưa tờ hóa đơn trên cho Hg để chuyển cho Đinh Văn Th. Quá trình mua bán giữa Công ty Xuân H và ông Võ Ngọc Thn không làm hợp đồng, không thanh toán tiền qua tài khoản của công ty Xuân H như nội dung ghi trên hóa đơn.
Ngày 31/01/2019, Đinh Văn Th tiếp tục chuyển số tiền 200.000.000 đồng còn lại theo thỏa Thn trước đó cho Đinh Thị V qua số tài khoản trên. Sau khi đã nhận được tổng số tiền 400.000.000 đồng do Th chuyển, V đưa cho Tô Xuân H 200.000.000 đồng và nói với H đây là tiền công nhập khẩu và bán xe ô tô trên, V giữ lại 200.000.000 đồng sử dụng cá nhân.
Sau khi xuất hóa đơn bán xe và nhận đủ số tiền 400.000.000 đồng, Đinh Thị V hướng dẫn Tô Xuân H chuyển nhượng doanh nghiệp cho người khác đứng tên, thay đổi địa điểm kinh doanh của Công ty Xuân H nhằm mục đích trốn tránh việc kiểm tra của Cơ quan thuế để trốn thuế. Ngày 22/4/2019 Tô Xuân H nhờ anh Ngô Văn S, sinh năm 1992, trú tại xóm …, xã Ch, huyện KS, tỉnh Ninh Bình nhận chuyển nhượng, đứng tên Giám đốc Công ty Xuân H, đồng thời đăng ký chuyển địa chỉ kinh doanh về số nhà 537, đường NVC, phường B1, thành phố N1 là địa chỉ không có thật. Sau đó, Đinh Thị V làm báo cáo thuế Quý I/2019 cho Công ty Xuân H nhưng không kê khai doanh thu và các loại thuế phát sinh khi bán xe. Từ Qúy II/2019, Tô Xuân H và Đinh Thị V không thực hiện việc kê khai thuế cho Công ty Xuân H theo quy định.
Ngày 09/5/2019, Chi Cục thuế thành phố N1 (nay là Chi Cục thuế khu vực Ninh Bình - H) ra thông báo yêu cầu Công ty Xuân H cung cấp tài liệu về việc kê khai thuế liên quan đến xe ô tô nhập khẩu nhưng không nhận được phản hồi từ phía doanh nghiệp này. Ngày 27/5/2019, Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H đã tiến hành kiểm tra tại địa chỉ kinh doanh của Công ty Xuân H tại số nhà …, đường NVC, phường B1, thành phố N1, xác định đây là địa chỉ không có thật. Ngày 05/6/2019 Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H ra Thông báo số 162/TB-CCT về việc Công ty Xuân H không hoạt động tại địa chỉ đăng ký, đóng mã số thuế đối với doanh nghiệp này. Ngày 26/9/2021, Công ty Xuân H đã bị Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình rút giấy phép kinh doanh.
* Kết quả trưng cầu giám định; việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu;
xử lý vật chứng:
- Kết quả trưng cầu giám định về thuế:
Ngày 19/10/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình ra Quyết định trưng cầu giám định số 109/QĐ-CSKT về việc Trưng cầu giám định viên tư pháp trong lĩnh vực Thuế thuộc Cục thuế tỉnh Ninh Bình giám định thiệt hại về thuế do Công ty TNHH Xuân H Travel nhập khẩu ô tô dưới hình thức nhận quà tặng từ nước ngoài nhưng không hạch toán giá trị xe được tặng vào thu nhập khác của doanh nghiệp, sau đó bán xe nhưng không kê khai và nộp các loại thuế phát sinh.
Tại Bản kết luận giám định ngày 11/11/2022 của Tổ giám định theo vụ việc Cục thuế Ninh Bình kết luận: “Tổ giám định xác định các sắc thuế còn thiếu phải nộp đối với các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến việc nhập khẩu xe dưới hình quà biếu, quà tặng sau đó mang đi bán theo yêu cầu của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Ninh Bình như sau:
Về thuế TTĐB ở khâu tiêu thụ nội địa là: 162.406.372 đồng. Về thuế GTGT là: 34.285.789 đồng Số thuế TNDN là: 525.811.772 đồng.
(Tổng cộng: 722.503.933 đồng)” - Kết quả trưng cầu giám định về chữ ký, chữ viết:
Ngày 30/11/2022 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Ninh Bình ra Quyết định trưng cầu giám định số 121/CSKT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình giám định tài liệu chữ ký, chữ viết mang tên Tô Xuân N trong các tài liệu Cơ quan điều tra thu thập được gồm các tài liệu đăng ký thành lập công ty Xuân H và các tài liệu nhập khẩu, bán xe ô tô.
Ngày 16/12/2022 Phòng Kỹ Thn hình sự Công an tỉnh Ninh Bình ban hành Kết luận giám định số 867/KL-KTHS-TL kết luận: “Chữ viết, chữ ký mang tên Tô Xuân N tại các mục đã được mô tả trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A14 so với chữ ký, chữ viết của ông Tô Xuân H tại các mục đã được mô tả trên các tài liệu mẫu so sánh, ký hiệu từ M1 đến M11 là chữ do cùng một người viết, ký ra.”
Về xử lý vật chứng và tài sản đã thu giữ:
Quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ: 01 Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty TNHH Xuân H Travel; 01 hóa đơn GTGT số 00000003 ngày 29/01/2019 của Công Xuân H; 01 Đơn xin cấp phép nhập khẩu xe ô tô không nhằm mục đích tHg mại số 001/2018/CV của Công ty Xuân H; 01 Giấy phép nhập khẩu xe ô tô không nhằm mục đích tHg mại số 1734/NK- KNMĐTM; Tờ khai hàng hóa nhập khẩu số 102298632700; Tờ khai hàng hóa nhập khẩu số 102294369922. Toàn bộ số tài liệu trên đã được Cơ quan điều tra đưa vào hồ sơ vụ án ( đều là bản phô tô, đóng dấu treo).
Quá trình điều tra bị can Tô Xuân H đã tự nguyện nộp số tiền 30.000.000 đồng, Đinh Thị V đã tự nguyện nộp số tiền 415.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình quyết định chuyển số tiền 445.000.000 đồng đến tài khoản của Cục thi hành án tỉnh Ninh Bình quản lý theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng.
Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 22 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V về tội “Trốn thuế” theo quy định tại điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 200 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình căn cứ vào tính chất của vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V phạm tội “Trốn thuế”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 200; các điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Tô Xuân H phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng.
Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 200; các điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 41 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đinh Thị V, phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng; phạt bổ sung cấm bị cáo Đinh Thị V làm công việc liên quan đến lĩnh vực kế toán với thời hạn từ 2 đến 3 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự:
- Buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền trốn thuế là 722.503.933 đồng.
- Buộc bị cáo Tô Xuân H phải nộp lại số tiền 200.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính. Buộc bị cáo Đinh Thị V phải nộp lại số tiền 215.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính.
Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo Tô Xuân H đã nộp số tiền 377.503.933 trong quá trình chuẩn bị xét xử. Tiếp tục quản lý số tiền 445.000.000 đồng của các bị cáo đã nộp trong quá trình điều tra dể đảm bảo thi hành án (để khấu trừ vào số tiền thuế và tiền thu lợi bất chính).
Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Lời nói sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với đề nghị của nguyên đơn dân sự, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với kết luận giám định ngày 11 tháng 11 năm 2022 của Tổ giám định theo vụ việc Cục thuế Ninh Bình, với kết luận giám định số 867/KL-KTHS-TL ngày 16 tháng 12 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận: Tô Xuân H đã giả mạo chữ ký của ông Tô Xuân N để thành lập Công ty Xuân H, lấy tên Giám đốc là Tô Xuân N. Vì mục đích vụ lợi, Tô Xuân H cùng với Đinh Thị V là kế toán Công ty bàn bạc với nhau sử dụng tư cách pháp nhân của công ty Xuân H, H đã ký mạo danh ông Tô Xuân N để làm thủ tục nhập khẩu xe ô tô nhãn hiệu Mercedes-Benz G63 AMG dưới hình thức nhận quà tặng từ nước ngoài nhưng không hạch toán giá trị xe được tặng là 2.448.607.335 đồng vào thu nhập khác của doanh nghiệp và không kê khai các loại thuế phát sinh khi nhập khẩu xe ô tô nêu trên. Sau khi xuất hóa đơn bán xe cho ông Võ Ngọc Thn đã không kê khai đầy đủ các loại thuế phải nộp là: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu tiêu thụ nội địa, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm mục đích trốn thuế, gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 722.503.933 đồng, sau đó làm thủ tục chuyển nhượng doanh nghiệp, thay đổi địa điểm kinh doanh của Công ty Xuân H để trốn trách sự phát hiện của cơ quan thuế.
Hành vi của các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V đã phạm tội “Trốn thuế” quy định tại b khoản 2, khoản 4 Điều 200 của Bộ luật Hình sự.
Điêu 200. Tôi trốn thuế “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;
b)...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a)..
b) Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình truy tố các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị Vương đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực thuế của Nhà nước, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, doanh nghiệp gây thất thu thuế trên địa bàn do đó phải xử lý nghiêm Mh trước pháp luật để giáo dục cải tạo các bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[3] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi, vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo trong vụ án để quyết định hình phạt phù hợp.
3.1. Về tính chất, mức độ hành vi, vai trò của các bị cáo như sau:
Bị cáo V là kế toán công ty là người được Hg trực tiếp liên hệ và nhận hồ sơ mua bán ô tô, nhận tiền thu lợi bất chính để chia cho H; còn bị cáo H đã giả mạo chữ ký ông Tô Xuân N để thành lập Công ty Xuân H và sử dụng tư cách pháp nhân của công ty Xuân H làm thủ tục nhập khẩu xe ô tô cùng nhau trốn thuế để thu lợi bất chính, vì vậy các bị cáo có vai trò ngang nhau.
3.2. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá tình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền thu lời bất chính và tiền trốn thuế: H là 407.503.933 đồng, V là 415.000.000 đồng. Bị cáo H được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình tặng Bằng khen năm 2008. Bị cáo V được Bộ tài chính tặng Bằng khen năm 2020, tặng giấy khen năm 2019, công nhận danh hiệu chiến sỹ thi đua cơ sở năm 2017. Ngoài ra bị cáo V đang điều trị bệnh ung thư vú đã di căn vào xương đang điều trị hóa chất, đã ly hôn chồng và đang phải nuôi 2 con nhỏ; bị cáo H đã ly hôn vợ và đang phải nuôi con nhỏ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần được áp dụng cho các bị cáo khi lượng hình.
3.3. Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân tốt; bị cáo Đinh Thị V đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N1, tỉnh Ninh Bình khởi tố bị can về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.
Từ những căn cứ trên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt bằng tiền đối với các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung cấm bị cáo Đinh Thị V làm công việc có liên quan đến lĩnh vực thuế với thời hạn 02 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
[4] Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý như sau:
- Đối với số tiền 722.503.933 đồng trốn thuế gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước các bị cáo đã nộp đủ, được đối trừ vào số tiền 407.503.933 đồng bị cáo H đã nộp và số tiền 415.000.000 đồng bị cáo V đã nộp (theo bản thỏa Thn ngày 14 tháng 7 năm 2023 bị cáo H nộp 361.503.933 đồng và bị cáo V nộp 361.000.000 đồng tiền trốn thuế, số còn lại được trừ vào tiền thu lợi bất chính).
- Buộc bị cáo Tô Xuân H phải nộp lại số tiền 200.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính, bị cáo đã nộp 46.000.000 đồng, còn phải nộp tiếp 154.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính để sung ngân sách Nhà nước.
- Buộc bị cáo Đinh Thị V phải nộp lại số tiền 215.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính bị cáo đã nộp 54.000.000 đồng, còn phải nộp tiếp 161.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính để sung ngân sách Nhà nước.
[5] Đối với ông Tô Xuân N: Việc Tô Xuân H lấy chứng Mh thư và giả chữ ký của ông N để thành lập doanh nghiệp cũng như nhập khẩu xe để trốn thuế ông N không biết do vậy không có căn cứ để xem xét xử lý đối với ông N.
Đối với Đinh Văn Th và Lê Mh, quá trình điều tra Th khai: Được Lê Mh sinh năm 1977, trú tại số nhà .., phường Q, quận Tr, thành phố Hà Nội thuê tìm doanh nghiệp tại Ninh Bình để đứng tên nhập khẩu xe ô tô dưới hình thức nhận quà tặng từ nước ngoài, sau đó Th được Đinh Thị Hg giới thiệu Đinh Thị V là kế toán của công ty Xuân H. Sau khi tìm được công ty, Th được Mh trả công 10.000.000 đồng, cơ quan điều tra đã tiến hành xác Mh xác định: Lê Mh xuất cảnh ra nước ngoài từ ngày 29/6/2021 qua cửa khẩu Nội Bài hiện chưa có thông tin nhập cảnh, ngoài ra Lê Mh hiện đang bị Công an thành phố Hà Nội khởi tố truy nã về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” do vậy Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ khi nào có đủ chứng cứ xác định hành vi vi phạm của Th và Lê Mh sẽ xem xét xử lý sau.
Đối với Đinh Thị Hg: Là người được Th nhờ để tìm pháp nhân doanh nghiệp để nhập khẩu xe và chuyển các giấy tờ thủ tục giữa Th với V. Đinh Thị Hg không được hưởng lợi cũng không biết việc làm của Tô Xuân H, Đinh Thị V để trốn thuế, vì vậy, không có căn cứ xử lý đối với Đinh Thị Hg.
[6] Về quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[7] Về án phí: Các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V bị tuyên có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200; các điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Tô Xuân H;
Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 200; các điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 41 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đinh Thị V;
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V phạm tội “Trốn thuế”.
Xử phạt bị cáo Tô Xuân H 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.
Xử phạt bị cáo Đinh Thị V 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Cấm bị cáo Đinh Thị V làm công việc liên quan đến lĩnh vực thuế với thời hạn 02 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Biện pháp tư pháp:
- Buộc các bị cáo Tô Xuân H và Đinh Thị V phải nộp lại toàn bộ số tiền trốn thuế là 722.503.933 đồng cho Chi cục thuế khu vực Ninh Bình - H, tỉnh Ninh Bình.
Ghi nhận sự tự nguyện thoả Thn của các bị cáo đã nộp đủ số tiền trên, cụ thể: Tô Xuân H đã nộp 361.503.933 đồng và Đinh Thị V đã nộp 361.000.000 đồng.
- Buộc bị cáo Tô Xuân H phải nộp lại số tiền 200.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính để sung ngân sách Nhà nước, bị cáo đã nộp 46.000.000 đồng, còn phải nộp tiếp số tiền 154.000.000 đồng (một trăm năm mươi tư triệu đồng).
- Buộc bị cáo Đinh Thị V phải nộp lại số tiền 215.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính để sung ngân sách Nhà nước, bị cáo đã nộp 54.000.000 đồng, còn phải nộp tiếp số tiền 161.000.000 đồng (một trăm sáu mươi mốt triệu đồng).
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Tô Xuân H đã nộp số tiền 277.503.933 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000222 ngày 04/7/2023 và số tiền 100.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000223 ngày 04/7/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, để đảm bảo thi hành án.
Tiếp tục quản lý số tiền 445.000.000 đồng (trong đó V có 415.000.000 đồng, H có 30.000.000 đồng) đang gửi tại tài khoản tạm giữ của Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Bình theo ủy nhiệm chi số 06 lập ngày 26/6/2023 đơn vị trả tiền Công an tỉnh Ninh Bình để đảm bảo thi hành án cho các bị cáo.
3. Án phí: Các bị cáo Tô Xuân H, Đinh Thị V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Thn thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 29/2023/HS-ST về tội trốn thuế
Số hiệu: | 29/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về