TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 29/2023/HS-PT NGÀY 15/03/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 15 tháng 03 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 168/2022/TLPT-HS ngày 31 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Hồ Văn T do có kháng cáo của bị cáo Hồ Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 102/2022/HS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã HN, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Hồ Văn T, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1991 tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Khu phố NAĐ, phường HTT, thị xã HN, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Không xác định được, con bà Hồ Thị T, sinh năm 1962; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 22/12/2020, Hồ Văn T đến Công ty TNHH Srisawad Việt Nam để thực hiện hợp đồng cầm cố xe mô tô biển kiểm soát 77C1-733.67. Hai bên thống nhất cầm cố xe mô tô biển kiểm soát 77C1-733.67 với giá 30.000.000 đồng. Quá trình thực hiện giao dịch, T giao xe mô tô 77C1-733.67 và giấy đăng ký xe mô tô 77C1-733.67 cho cơ sở cầm đồ. Sau đó, T viết giấy mượn lại xe mô tô biển kiểm soát 77C1-733.67 để sử dụng với nội dung không được giao, cho thuê lại xe mà không có sự đồng ý của Công ty TNHH Srisawad Việt Nam.
Trong thời gian này, có nhiều chủ nợ đòi và yêu cầu T trả nợ. Do không có tiền trả nợ, nên đầu tháng 12/2021, T lên mạng xã hội Facebook đặt làm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 77C1-733.67 giả mang tên Hồ Văn T với mục đích cầm cố xe mô tô biển kiểm soát 77C1-733.67 lấy tiền trả nợ. Khoảng 05 ngày sau, một thanh niên không rõ nhân thân, giao cho T 01 giấy đăng ký xe mô tô 77C1-733.67 giả và T đưa 1.000.000 đồng cho người này. Ngày 27/12/2021, T sử dụng giấy đăng ký xe mô tô giả này và đem xe mô tô 77C1-733.67 đến cơ sở cầm đồ Tân Tiến Tài do bà Phạm Thị Chút làm chủ để cầm cố. Hai bên thống nhất cầm cố xe mô tô 77C1-733.67 với số tiền 20.000.000 đồng. Trong lúc nhận cầm cố xe, bà Chút không biết giấy đăng ký xe mô tô đứng tên Hồ Văn T là giả nên đã nhận cầm cố và đưa cho T số tiền 20.000.000 đồng. Số tiền chiếm đoạt được của bà Chút, T trả nợ và tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận giám định số 98/KL-KTHS ngày 28/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mẫu cần giám định ký hiệu A là Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả”.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2022/HS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã HN đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên xử: Xử phạt bị cáo bị cáo Hồ Văn T 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo Hồ Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định pháp luật.
Ngày 21.9.2022, bị cáo Hồ Văn T có đơn kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo T không bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong sơ vụ án thể hiện:
Bị cáo Hồ Văn T đã có hành vi thuê người làm giả và sử dụng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 77C1-733.67 giả mang tên Hồ Văn T để cầm cố xe mô tô trên cho bà Phạm Thị Chút để lấy số tiền 20.000.000 đồng. Do đó, Tòa án nhân dân thị xã HN xét xử bị cáo T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hồ Văn T, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; căn cứ vào các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 02 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là đúng khung hình phạt và phù hợp với các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, do đó không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Văn Thanh. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Hồ Văn T 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Hồ Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo Hồ Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về án phí: Bị cáo Hồ Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 29/2023/HS-PT về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 29/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về