TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-PT NGÀY 22/12/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Trong ngày 22 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ lý số 25/2022/TLPT-HNGĐ ngày 01/11/2022 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”, do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 220/2022/HNGĐ-ST ngày 11/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 20/2022/QĐ-PT ngày 04/11/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/QĐ- PT ngày 29/11/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Phan Văn P, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp T2, thị trấn ML, huyện C, tỉnh A.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông P: Luật sư Lê Thị H – Văn phòng luật sư Lê Thị H, Đoàn Luật sư tỉnh A; địa chỉ: số 01 ấp LP2, xã LĐB, huyện C, tỉnh A.
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 2000; nơi cư trú: số 526, ấp MT , xã MA, huyện C, tỉnh A, nơi ở khác: khu phố PH, HL, BC, tỉnh Bình Dương.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1974;
2. Bà Trần Thị Ngọc A, sinh năm 1976;
Cùng nơi cư trú: số 526, ấp MT, xã MA, huyện C, tỉnh A.
Người kháng cáo: bà Nguyễn Thị Tuyết N.
Tất cả các đương sự có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Phan Văn P trình bày:
Ông P và bà N đã thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 362 ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện C. Theo đó, bà N chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Phan Tuấn K, sinh ngày 08/3/2018, bà N và thành viên gia đình không được cản trở ông P chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Tuy nhiên, ông P đến thăm con, xin chở con về nhà ông, bà nội chơi thì bà N và ông L, bà L ngăn cản. Tháng 01 năm 2021, ông P có đơn khởi kiện, yêu cầu thay đổi người nuôi con. Quá trình hòa giải, bà N có hứa tạo điều kiện cho ông P, ông, bà nội của K được gặp K mỗi tuần nên ông P đã rút lại đơn khởi kiện. Mặc dù vậy, bà N và cha mẹ của bà N không cho ông P rước con về nhà cha mẹ của ông P. Bên cạnh đó, bà N đi làm ở xa, không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, không về nhà thường xuyên mà giao K cho ông L, bà L chăm sóc, ngăn cản không cho ông P thăm con. Ngoài ra, bà N đang có chồng sau và có con với người chồng đó. Vì vậy, ông P yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con từ bà N sang cho ông P trực tiếp nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Theo bản tự khai bà Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:
Bà N đang trực tiếp nuôi con theo quyết định thuận tình ly hôn của Tòa án. Trong thời gian bà N đi làm ở công ty tại Bình Dương, có gửi con lại cho cha mẹ của bà N chăm sóc. Dù vậy, tháng nào bà N vẫn có đi về thường xuyên. Thời gian qua, chỉ có mẹ của ông P ghé nhà thăm K, còn ông P chỉ ngó nhìn chứ không ghé thăm con. Mặc dù bà N có cho rước con nhưng do dịch bệnh nên bà N không cho con đi, sợ ảnh hưởng đến con.
Bà N không đồng ý thay đổi người trực tiếp nuôi con do bản thân bà N vẫn bảo đảm việc nuôi con. Ông P có thăm con mà gia đình cản trở thì sẽ chịu xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo biên bản lấy lời khai ngày 26/7/2022, ông Nguyễn Văn L và bà Trần Thị Ngọc A trình bày:
Ông L, bà L là cha mẹ của N và là ông, bà ngoại của trẻ Phan Tuấn K. Sau ngày N và P ly hôn, theo đó, N được trực tiếp nuôi con Phan Tuấn K. Thời điểm N ly hôn, bản thân N chưa có việc làm. Đến khoảng 01 năm sau, N mới đi làm thuê ở Bình Dương nhằm có thu nhập kinh tế nuôi con nhỏ.
Quá trình N đi làm ở Bình Dương, N có giao con lại cho vợ chồng ông L, bà L trông giữ để N có điều kiện đi làm, kiếm thu nhập kinh tế. Còn bản thân vợ chồng ông L, bà L có việc làm ở gần nhà bằng nghề nuôi bò, phụ hồ. Thời gian qua, do dịch bệnh làm cho N khó khăn xe cộ đi lại, cũng như tình hình giãn cách xã hội nên N thỉnh thoảng có về thăm con mà không được thường xuyên.
Năm 2021, N lập gia đình với người chồng khác. Vì hoàn cảnh việc làm, N và người chồng sau cùng lên Bình Dương làm thuê, thỉnh thoảng N có về nhà chồng N tại Hậu Giang rồi cũng có về nhà của ông L, bà L để chăm sóc con Phan Tuấn K. Vợ chồng ông L, bà L khẳng định, tuy có chồng nhưng N không bao giờ bỏ phế con Phan Tuấn K.
Việc N cùng vợ chồng ông L, bà L nuôi cháu ngoại Phan Tuấn K từ khi cháu còn nhỏ cho tới nay. Quá trình nuôi cháu K, N có gửi tiền về cho vợ chồng ông L, bà L lo cho cháu. Bên cạnh đó, vợ chồng ông L, bà L cũng có phụ tiếp phần nào cơm nước, chi phí nuôi cháu được tốt hơn. Vợ chồng ông L, bà L không có yêu cầu đòi lại chi phí nuôi dưỡng cháu K. Qua yêu cầu của P thì vợ chồng ông L, bà L không thống nhất việc giao cháu Phan Tuấn K cho P trực tiếp nuôi dưỡng. Đợi khi nào cháu lớn khoảng 12-13 tuổi thì sẽ giao cháu K về sống chung với P, bên cạnh đó, P có thăm cháu thì sẵn sàng cho thăm, không ai cản trở gì cả.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 220/2022/HNGĐ-ST ngày 11/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phan Văn P đối với bị đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Giao con Phan Tuấn K, sinh ngày 08/3/2018 cho anh Phan Văn P được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con; ông P không yêu cầu bà Ncấp dưỡng cho con.
Bà N không còn đủ điều kiện trực tiếp nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí sơ thẩm, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 11/8/2022 bà Nguyễn Thị Tuyết N kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm cho bà được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Phan Tuấn K đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông P cấp dưỡng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu được nuôi cháu Phan Tuấn K. Ông P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý yêu cầu kháng cáo của bà N. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Bà N có cung cấp đơn xin nhập học của cháu Phan Tuấn K tại Trường Mầm non P Đông (không có ngày, tháng, năm), phiếu lương, biên nhận ngày 26/10/2022.
Tranh luận:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông P phát biểu ý kiến: cấp sơ thẩm giao con chung cho ông P nuôi dưỡng là hoàn toàn có căn cứ. Lời khai của bà N tại phiên tòa có nhiều mâu thuẫn, các chứng cứ bà N cung cấp tại phiên tòa không có giá trị pháp lý, không có xác nhận của nơi bà N đang làm việc. Xét về hoàn cảnh kinh tế cũng như nơi ở, bà N không đủ điều kiện để nuôi con. Sau khi xử sơ thẩm bà N đem con đi nơi khác là cố ý đối phó với việc thi hành án. Nếu ông P nuôi con sẽ tạo điều kiện cho bà N được quyền tới lui thăm nom con chung. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà N, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Các đương sự không tranh luận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: bà N kháng cáo và nộp tạm ứng án phí trong hạn luật định nên được Tòa án nhân dân tỉnh A thụ lý giải quyết đúng quy định. Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Các đương sự cũng chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng.
Về nội dung: Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 362/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, thì bà N được nuôi con chung Phan Tuấn K sinh ngày 08/3/2018. Tháng 01/2021 ông P khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, sau đó ông P rút đơn nên vụ án được đình chỉ. Hiện bà N đang có chồng khác tại tỉnh Hậu Giang, có con nhỏ 12 tháng tuổi, vợ chồng bà N đang làm công nhân tại tỉnh Bình Dương, bà N giao cháu K cho cha mẹ ruột là ông L, bà L nuôi dưỡng. Bà N không trực tiếp nuôi con, ông P có công việc và chỗ ở ổn định đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P là có căn cứ. Bà N kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà N, áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục kháng cáo: bà N kháng cáo và nộp tạm ứng án phí trong thời hạn luật định nên được chấp nhận giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bà N:
Ông P, bà N đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 362/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, đã có hiệu lực pháp luật. Theo Quyết định nêu trên thì bà N được trực tiếp nuôi con chung tên Phan Tuấn K, sinh ngày 08/3/2018. Tháng 3/2021 ông P khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con tại Tòa án nhân dân huyện C, sau đó ông P rút đơn nên vụ án được đình chỉ. Tháng 01/2022 ông P tiếp tục khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu được nuôi con chung Phan Tuấn K. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bà N và ông Nguyễn Văn L, Trần Thị Ngọc A là cha mẹ ruột bà N đều trình bày bà N đang làm công nhân tại tỉnh Bình Dương, bà N không trực tiếp nuôi con mà giao cháu K cho ông L, bà L nuôi dưỡng, một tháng về thăm con 01 đến 02 lần, hiện bà N đã có chồng khác và đã sinh thêm 01 người con được 12 tháng tuổi. Theo lời trình bày của bà N thì đứa con sau bà cũng không trực tiếp nuôi mà giao cho ông bà nội nuôi dưỡng tại tỉnh Hậu Giang, một tháng cũng về thăm con 01-02 lần. Như vậy, về điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con thì bà N không đảm bảo. Đối với ông P, hiện nay đang ở tại huyện Chợ Mới làm ăn, có nơi ở và kinh tế ổn định, thuận lợi cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc cháu K. Để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em, cấp sơ thẩm giao cháu K cho ông P nuôi dưỡng là phù hợp.
Bà N có cung cấp các tài liệu, chứng cứ là đơn xin nhập học của cháu Phan Tuấn K tại Trường Mầm non P Đông (không có ngày tháng năm), phiếu lương, biên nhận ngày 26/10/2022. Xét thấy, các tài liệu chứng cứ này không chứng minh được điều kiện nuôi con của bà N tốt hơn ông P nên kháng cáo của bà N không được chấp nhận.
Tại phiên tòa bà N cho rằng cháu K hiện đang sống cùng bà tại Thành phố Hồ Chí Minh và đang được đi học mẫu giáo. Tuy nhiên, sau đó bà N, ông L và bà L đều thừa nhận cháu K hiện đang sống tại nhà bà L, ông L, đang do ông L, bà L nuôi dưỡng. Do đó, cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm về cách tuyên án buộc bà N, ông L và bà L phải có nghĩa vụ giao cháu K cho ông P nuôi dưỡng.
[3] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bà N phải chịu 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tuyết N về việc yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Phan Tuấn K, sinh ngày 08/3/2018.
Sửa Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 220/2022/HNGĐ-ST ngày 11/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A về cách tuyên án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn P đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
1. Giao con chung tên Phan Tuấn K, sinh ngày 08/3/2018 cho ông Phan Văn P được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con; ông P không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.
Ông P cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
2. Buộc bà Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Văn L và bà Trần Thị Ngọc A phải có nghĩa vụ giao cháu Phan Tuấn K cho ông Phan Văn P nuôi dưỡng.
3. Về án phí sơ thẩm:
Ông P được nhận lại 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0010005 ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh A.
Bà N phải chịu án phí 300.000 đồng.
4. Về án phí phúc thẩm: bà N phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005508 ngày 11/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh A (bà N đã nộp xong).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 29/2022/HNGĐ-PT về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 29/2022/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/12/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về