Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2021/TLST- HNGĐ ngày 12/01/2021 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Chu Văn X, sinh năm 1979; thường trú: Khu 13, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ; tạm trú: Tổ 4, khu phố Khánh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Bị đơn: Bà Trịnh Thị H, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 4, khu phố K, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/12/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Chu Văn X trình bày:

Sau thời gian tìm hiểu được khoảng 01 năm, ông Chu Văn X và bà Trịnh Thị H tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ vào ngày 01/6/2006. Sau khi kết hôn, ông X và bà H sinh sống tại phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ đầu năm 2019 đến nay, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung thường xuyên xảy ra cãi vã. Khi mâu thuẫn xảy ra, vợ chồng ông X đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Ông X và bà H đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Trong thời gian ly thân, ông X và bà H không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Do tình cảm vợ chồng không còn nên ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà X.

Về con chung: Ông H và bà X có 02 con chung tên Chu Tiến N, sinh ngày 13/6/2007 và Chu Tấn H, sinh ngày 16/7/2015. Khi ly hôn ông H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Chu Tiến H, bà X trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chu Tiến N; ông H và X không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, ông X vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn bà Trịnh Thị H vắng mặt, không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên toà sơ thẩm như sau:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị đơn bà Trịnh Thị H được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn bà Trịnh Thị Học.

[2] Ông Chu Văn X và bà Trịnh Thị H tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2007, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ vào ngày 01/6/2006, là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời trình bày của ông X thì trong thời gian chung sống giữa ông X và bà H phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không tin tưởng nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung. Ông X và bà H đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập bà H tham gia tố tụng nhưng bà H vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc bà H vắng mặt không có lý do, là tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, nghĩa vụ chứng minh của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa ông X và bà H là thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, ông X yêu cầu được ly hôn với bà H là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Ông X và bà H có 02 con chung tên Chu Tiến N, sinh ngày 13/6/2007 và Chu Tấn H, sinh ngày 16/7/2015. Khi ly hôn ông X yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Chu Tiến H, bà H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chu Tiến N; ông X và bà H không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, cháu N, cháu H đang sống cùng với bà H, ông X, cháu H có nguyện vọng sống cùng với bà H; việc giao cho mỗi người nuôi một con chung đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng nên yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 56, 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chu Văn X như sau:

- Về hôn nhân: Ông Chu Văn X được ly hôn với bà Trịnh Thị H.

- Về con chung: Giao con chung tên Chu Tiến N, sinh ngày 13/6/2007 cho bà Trịnh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung tên Chu Tấn H, sinh ngày 16/7/2015 cho ông Chu Văn X trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Chu Văn X và bà Trịnh Thị H đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Chu Văn X phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0052160 ngày 06/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;