Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 46/2021/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 3 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07/4/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Võ Thị H, sinh năm 1986.

* Bị đơn: Ông Trần Văn Q, sinh năm 1983.

Cùng địa chỉ: Khu phố 7, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt nguyên đơn, bị đơn)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời trình bày tại Tòa của nguyên đơn bà Võ Thị H có nội dung như sau:

Bà và ông Trần Văn Q tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn số 170, ngày 15/11/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà dọn về sống ở khu phố 7, phường Bình Tân, thị xã L. Vợ chồng tôi sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bà không cùng quan điểm sống, ông Q thường xuyên kiếm chuyện gây sự với bà, ông Q còn hay nhậu, mỗi lần bà khuyên can thì ông Q lại đánh đập bà. Lần gần nhất ông Q đánh bà gây thương tích và bà đã cung cấp giấy chứng nhận thương tích cho Tòa án. Hiện bà không còn sống chung với ông Q từ đầu năm 2021 đến nay, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng bà có với nhau được 03 người con chung tên (1) Trần Văn Q, sinh ngày 11/4/2007, giới tính nam, (2) Trần Thị Yến M, sinh ngày 20/4/2010, giới tính nữ và (3) Trần Thị Yến L, sinh ngày 19/02/2012, giới tính nữ (các con hiện đang sống với bà). Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi 03 người con, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo lời trình bày tại Tòa của bị đơn ông Trần Văn Q có nội dung như sau:

Ông thống nhất lời trình bày của bà H về thời gian sống chung, đăng ký kết hôn, con chung và mâu thuẫn vợ chồng. Về nguyên do ông đánh bà H là do bà H chửi ông khi ông đi nhậu về. Ông nhận thấy vợ chồng tuy có mâu thuẫn nhưng không có trầm trọng, chỉ là cải nhau qua lại. Nay bà H khởi kiện ly hôn thì ông không đồng ý, vì ông vẫn còn tình cảm với bà H, hơn nữa các con còn nhỏ, ông muốn vợ chồng đoàn tụ để yêu thương nhau, nuôi dạy con cái.

Trường hợp, bà H cương quyết ly hôn ông và Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H thì ông đồng ý giao 03 người con cho bà H nuôi, bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên ông sẽ không cấp dưỡng, và hiện ông cũng khó khăn, khi nào có điều kiện ông sẽ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và đương sự đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, được thẩm tra qua phần tranh tụng tại phiên tòa đã đủ căn cứ xác định yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị H là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị H, cho bà H được ly hôn ông Q; Về con chung: Giao 03 người con chung tên (1) Trần Văn Q, sinh ngày 11/4/2007, giới tính nam, (2) Trần Thị Yến M, sinh ngày 20/4/2010, giới tính nữ và (3) Trần Thị Yến L, sinh ngày 19/02/2012, giới tính nữ cho bà H được trực tiếp nuôi dưỡng; Ông Q không phải cấp dưỡng nuôi các con; Về án phí: Bà H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, qua kết quả tranh tụng, lời phát biểu của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Xét yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; bị đơn ông Trần Văn Q có địa chỉ tại khu phố 7, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vì vậy, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã L, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị H và ông Trần Văn Q tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn số 170, ngày 15/11/2006, vì vậy hôn nhân của ông, bà là hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án, dù đã được Tòa án nhiều lần khuyên can nhưng bà H vẫn một mực kiên quyết yêu cầu ly hôn ông Q vì thực tế bà đã tìm nhiều cách hàn gắn hạnh phúc nhưng không có kết quả. Tại phiên tòa, mặc dù ông Q trình bày là không đồng ý ly hôn vì ông vẫn còn tình cảm với bà H, hơn nữa các con còn nhỏ, ông vẫn muốn vợ chồng đoàn tụ để yêu thương nhau, nuôi dạy con cái nhưng bà H một lần nữa kiên quyết yêu cầu ly hôn vì hiện nay bà không còn tình cảm và tin tưởng ông Q nữa.

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nhưng giữa vợ chồng bà H - ông Q thì ông Q có hành vi bạo lực gia đình, làm cho bà H nhận thấy không thể sống chung nên về nhà cha mẹ sống, từ đó vợ chồng bà H - ông Q mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau, hành vi của ông Q làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đó là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2.2. Về con chung: Vợ chồng bà H - ông Q có với nhau được 03 người con chung tên (1) Trần Văn Q, sinh ngày 11/4/2007, giới tính nam, (2) Trần Thị Yến M, sinh ngày 20/4/2010, giới tính nữ và (3) Trần Thị Yến L, sinh ngày 19/02/2012, giới tính nữ (các con hiện đang sống với bà H). Khi ly hôn, bà H yêu cầu được nuôi 03 người con, qua yêu cầu của bà H thì ông Q trình bày là trường hợp bà H cương quyết ly hôn ông và Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H thì ông đồng ý giao 03 người con cho bà H nuôi. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ giao 03 người con cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà H không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con, cho nên Hội đồng xét xử đã giải thích cho bà H hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Tuy nhiên, bà H trình bày rằng việc không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, bà có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con nên Hội đồng xét xử không buộc ông Q phải cấp dưỡng nuôi con.

3.4. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Tuyên xử: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn” 1. Về hôn nhân: Bà Võ Thị H được ly hôn ông Trần Văn Q.

2. Về nuôi con chung: Giao 03 người con chung tên (1) Trần Văn Q, sinh ngày 11/4/2007, giới tính nam, (2) Trần Thị Yến M, sinh ngày 20/4/2010, giới tính nữ và (3) Trần Thị Yến L, sinh ngày 19/02/2012, giới tính nữ cho bà H được trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi 03 người con.

4. Về án phí: Bà Võ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004799 ngày 03/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L, bà H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Bà H, ông Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/4/2021).

Trường hợp Bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;