TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN, NUÔI CON CHUNG VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 16/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn, nuôi con chung và tài sản chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 2000 Địa chỉ: ấp 4, xã LĐĐA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu
-Bị đơn: Anh Lê Hữu Th, sinh năm 1993 Địa chỉ: ấp 3, xã LĐĐA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị Nh và anh Th có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/01/2021, lời khai trong quá trình tố tụng, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Nguyễn Thị Nh và bị đơn anh Lê Hữu Th trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị Nh và anh Th thống nhất xác định anh chị đi đến hôn nhân do mai mối, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2019 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LĐĐA vào ngày 05/12/2019 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.
Nguyên nhân ly hôn theo chị Nh trình bày: thời gian đầu chung sống khoảng 2, 3 tháng vợ chồng sống rất hạnh phúc, tuy N sau khi chị mang thai thì vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, do mẹ chồng chị khó khăn, chị có tâm sự với anh Th nhưng anh Th cứ phớt lờ, không quan tâm đến, nên từ đó vợ chồng không có tiếng nói chung, sau khi sinh con được 01 tháng thì chị về nhà cha mẹ ruột ở cho đến nay. Trong khoảng thời gian chị về nhà cha mẹ ở cho đến nay anh Th có đến thăm vài lần và gia đình anh Th có đến thăm 01 lần, khoảng 04 tháng nay anh Th không có ra thăm. Nay chị nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Hữu Th.
Nguyên nhân ly hôn theo anh Th trình bày: trong thời gian vợ chồng chung sống cũng không có mâu thuẫn gì nghiêm trọng, khi chị Nh mang thai, thì anh vẫn lo cho chị Nh đầy đủ, khi chị Nh sinh con thì bên gia đình anh vẫn chăm sóc, lo lắng. Sau khi chị Nh sinh con được 01 tháng thì chị Nh xin về nhà cha mẹ ruột chị Nh chơi, sau đó anh và gia đình qua rước thì chị Nh không chịu về, nói gia đình anh khó khăn, anh không quan tâm lo lắng, từ đó hai bên phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nay chị Nh yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý, do chị Nh đã quyết định thì không thể thay đổi được, cố níu kéo cũng không mang lại hạnh phúc.
Về con chung: chị Nh và anh Th thống nhất xác định trong thời gian chung sống anh chị có với nhau 01 người con chung tên Lê An N, sinh ngày 25/7/2020, hiện con đang sống với chị Nh, khi ly hôn chị Nh và anh Th đều có nguyện vọng được nuôi con, Về cấp dưỡng nuôi con: chị Nh yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000 đồng cho đến khi con tròn 18 tuổi, anh Th không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung chị Nh xác định: trong ngày cưới gia đình chồng có cho tổng cộng là 12,5 chỉ vàng 24k và 0,5 chỉ vàng 18k, gia đình chị có cho 02 chỉ vàng 24k, số tiền mặt 10.000.000 đồng hiện anh chồng tên Lê Hữu Ngh đang mượn. Ngoài ra vợ chồng tôi không còn tài sản chung nào khác. Trong thời gian tôi về nhà cha mẹ ở, do con còn nhỏ không có làm gì ra tiền để mua sữa, mua các vật dụng cho bé như (tả, phấn, dầu, giấy…), khi con bệnh phải đi khám điều trị thì chị đã bán 02 chỉ vàng 24k, hiện chỉ còn 12,5 chỉ vàng 24k và 0,5 chỉ vàng 18k. Khi ly hôn chị yêu cầu được giữ lại toàn bộ số vàng để nuôi con. Đối với số tiền 10.000.000 đồng thì chị không đặt ra yêu cầu xem xét giải quyết.
Về tài sản chung anh Th xác định: trong ngày cưới gia đình anh có cho tổng cộng là 12,5 chỉ vàng 24k và 0,5 chỉ vàng 18k, gia đình chị Nh có cho 02 chỉ vàng 24k. Ngoài ra vợ chồng tôi không còn tài sản chung nào khác. Khi chị Nh đi về nhà cha mẹ ruột chị Nh ở, chị Nh đã mang theo toàn bộ số vàng này. Khi ly hôn anh yêu cầu chia đôi số vàng này theo quy định pháp luật.
Về nợ chung: chị Nh và anh Th xác định anh chị chung sống nhưng không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Tại phiên tòa sơ thẩm chị Nh xác định chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với anh Th, chị Nh và anh Th xác định không còn tài liệu, chứng cứ để cung cấp thêm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, của nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Giữa chị Nh và anh Th kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, nay anh chị thống nhất ly hôn, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 53 và 55 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Trâm và anh Hiền là có căn cứ.
Về nuôi con chung: giao cháu Lê An N, sinh ngày 25/7/2020 cho chị Nh tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục.
Anh Lê Hữu Th có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: buộc anh Lê Hữu Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Lê An N, sinh ngày 25/7/2020 mỗi tháng 745.000 đồng cho đến khi cháu N tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 3 năm 2021. Việc cấp dưỡng được thi hành ngay.
Về tài sản chung: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến quyền lợi của người phụ nữ đang nuôi con nhỏ khi ly hôn, chia cho chị Nh số tài sản nhiều hơn anh Th để chị Nh có điều kiện lo cho con, chia cho Nh 7.5 chỉ vàng 24k và 0.5 chỉ vàng 18k; chia cho anh Th 5 chỉ vàng 24k.
Về nợ chung: chị Nh và anh Th xác định anh chị chung sống nhưng không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết Về án phí thì chị Nh và anh Th phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nh có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Th. Anh Th có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.
[2] Về nội dung vụ án: chị Nh và anh Th cưới nhau vào năm 2019, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LĐĐA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 05/12/2019 và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị Nh đối với anh Th thì Hội đồng đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị Nh và anh Th lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân khoảng 6 tháng nay. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Quá trình Tòa án làm việc thì cả chị Nh và anh Th đều có nguyện vọng được ly hôn với nhau. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn trong hôn nhân của anh chị đã rất trầm trọng, cuộc sống chung của anh chị là không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên Hội đồng đồng xét xử căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nh và anh Th để anh chị có một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, ổn định hơn là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về nuôi con chung: chị Nh và anh Th thống nhất xác định trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 người con chung tên Lê An N, sinh ngày 25/7/2020, hiện đang sống với chị Nh. Khi ly hôn chị Nh và anh Th đều có nguyện vọng được nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy khi quyết định giao con cho người nào trực tiếp nuôi con khi ly hôn thì phải xem xét mọi mặt để đảm bảo sự phát triển về vật chất lẫn tinh thần của con, chị Nh và anh Th xác định trong khoảng thời gian vợ chồng sống xa nhau thì chị Nh là người trực tiếp nuôi con. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi…”, tính đến thời điểm xét xử cháu N được khoảng 07 tháng tuổi. Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét tiếp tục giao con cho chị Nh nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau khi ly hôn là có căn cứ.
Anh Lê Hữu Th được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: chị Nh yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000 đồng cho đến khi con tròn 18 tuổi. Theo quy định tại các Điều 82, 83, 110 và 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì chị Nh có quyền yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, đây thể hiện trách nhiệm làm cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Do đó, chấp nhận mức cấp dưỡng nuôi con là mỗi tháng là 745.000 đồng là phù hợp quy định pháp luật, từ đó cần buộc anh Th cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 745.000 đồng cho đến khi con tròn 18 tuổi và có khả năng lao động như ý kiến đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp quy định pháp luật Về tài sản chung: xét thấy chị Nh và anh Th thống nhất tài sản chung của vợ chồng cho trong ngày cưới là 14.5 chỉ vàng 24k và 0.5 chỉ vàng 18k. Số vàng này hiện chị Nh đang quản lý. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử công nhận đây là sự thật, các đương sự không cần phải có nghĩa vụ chứng minh.
Chị Nh xác định số vàng cưới bên gia đình anh Th và gia đình chị cho trong ngày cưới tổng cộng là 14.5 chỉ vàng 24k và 0.5 chỉ vàng 18k, khi chị về nhà cha mẹ ruột ở thì chị đã mang theo toàn bộ số vàng này. Trong thời gian chị về nhà cha mẹ ở, do con còn nhỏ không có làm gì ra tiền để mua sữa, mua các vật dụng cho bé như (tả, phấn, dầu, giấy…), khi con bệnh phải đi khám điều trị thì chị đã bán 02 chỉ vàng 24k, hiện chỉ còn 12,5 chỉ vàng 24k và 0,5 chỉ vàng 18k. Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình chuẩn bị xét xử chị Nh có cung cấp cho Hội đồng xét xử các giấy tờ điều trị bệnh của con tại bệnh viện Đa khoa Thanh Vũ Bạc Liêu; đối với việc mua sữa, các vật dụng cho bé như tả, phấn, dầu, giấy….đối với một đứa trẻ nhỏ là phù hợp với thực tế. Trong thời gian nuôi con nhỏ chị Nh không làm ra tiền, anh Th lại không quan tâm, lo lắng cho con. Tại phiên tòa hôm nay anh Th cũng đồng ý việc chị Nh bán 02 chỉ vàng 24k để lo cho con. Do đó, việc chị Nh bán 02 chỉ vàng 24k để lo cho con là phù hợp nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Đối với số tiền 10.000.000 đồng chị Nh không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Từ những nhận định nêu trên có cơ sở xác định tài sản chung của chị Nh và anh Th còn lại là 12.5 chỉ vàng 24k và 0.5 chỉ vàng 18k,hiện chị Nh đang quản lý, chị Nh yêu cầu giữ lại toàn bộ để nuôi con, không đồng ý chia cho anh Th anh Th yêu cầu được chia đôi toàn bộ số vàng này. Đây là số vàng cưới được tặng cho chung trong ngày cưới là tài sản chung của vợ chồng. Nay chị Nh và anh Th ly hôn thì nguyên tắc phải chia, xét thấy nguồn gốc tài sản là do gia đình anh Th tặng cho trong ngày cưới, tuy N hiện chị Nh đang nuôi con nhỏ, chưa có thu nhập ổn định, đứa bé còn nhỏ cần nhiều chi phí để lo. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét chia cho chị Nh được hưởng số tài sản nhiều hơn anh Th là đúng với quy định pháp luật và phù hợp với thực tế.
Tại thời điểm xét xử vàng 24k có giá là 5.210.000 đồng/01chỉ; vàng 18k có giá là 3.923.000 đồng/01 chỉ.
Về nợ chung: chị Nh và anh Th không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Về Án phí: chị Nh và anh Th phải chịu theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 54, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110 và 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Nh và anh Lê Hữu Th.
2/.Về nuôi con chung: Giao người con chung tên Lê An N, sinh ngày 25/7/2020 cho chị Nguyễn Thị Nh nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục, cháu N hiện đang sống với chị Nh được giữ nguyên.
Anh Lê Hữu Th được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Lê Hữu Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Lê An N, sinh ngày 25/7/2020 mỗi tháng 745.000 đồng cho đến khi cháu N tròn 18 tuổi và có khả năng lao động, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 3/2021. Việc cấp dưỡng được thi hành ngay.
Về tài sản chung: chấp nhận yêu cầu của anh Lê Hữu Th về việc yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Nh.
Chia cho chị Nguyễn Thị Nh 7.5 chỉ vàng 24k và 0.5 chỉ vàng 18k (loại vàng đang lưu hành trên thị trường).
Chia cho anh Lê Hữu Th 5 chỉ vàng 24k (loại vàng đang lưu hành trên thị trường). Buộc chị Nh có nghĩa vụ giao số vàng này cho anh Th.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4/.Về nợ chung: chị Nh và anh Th không có nợ chung nên không xem xét giải quyết.
5/. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Nh phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 111516 ngày 18 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: chị Nguyễn Thị Nh phải nộp số tiền 2.051.800 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Lê Hữu Th phải nộp 300.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch anh Lê Hữu Th phải nộp 1.280.000 đồng nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải. Anh Lê Hữu Th đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 1.018.000 đồng theo biên lai thu số 0011517 ngày 18 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải được khấu trừ, anh Lê Hữu Th phải nộp tiếp số tiền 562.000 đồng.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Nguyễn Thị Nh và anh Lê Hữu Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 09/03/2021 về tranh chấp yêu cầu ly hôn, nuôi con chung và chia tài sản chung
Số hiệu: | 29/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về