Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 05/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05-5-2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2021/TLST- HNGĐ ngày 06-01- 2021, về việc Ly hôn và tranh chấp nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29-3-2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20-4-2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị L; đăng ký hộ khẩu thường trú: ThĐ, xã TĐ, huyện VB, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: Thôn KL, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

- Bị đơn: Anh Lê Đình D; nơi cư trú: ThĐ, xã TĐ, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04-01-2021, bản tự khai và tại phiên hòa giải, nguyên đơn là chị Bùi Thị L, trình bày:

Chị và anh Lê Đình D kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện VB, thành phố Hải Phòng ngày 24-9-1998. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được 20 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung trong quan hệ tình cảm tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm và không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Đình D.

Về con chung: Chị và anh D có 02 con chung là Lê Bá D1, sinh ngày 17- 11-1999, đã trưởng thành nên chị không yêu cầu giải quyết và Lê Đức Th, sinh ngày 16-12-2009. Khi ly hôn, chị đồng ý giao con chung Lê Đức Th cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị và anh D tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh D tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Anh Lê Đình D vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Biên bản lấy lời khai ngày 08-3-2021, trình bày:

Anh xác nhận về điều kiện kết hôn, thời gian và hoàn cảnh kết hôn cũng như mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị L như nội dung chị L trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong quan hệ tình cảm tâm sinh lý, nhưng chưa đến mức trầm trọng. Anh đã động viên, khuyên giải và tìm chị L về để vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người một nơi. Tuy nhiên, anh không đồng ý ly hôn với chị Bùi Thị L.

Về con chung: Anh và chị L có 02 con chung là Lê Bá D1, sinh ngày 17- 11-1999, đã trưởng thành nên anh không yêu cầu giải quyết và Lê Đức Th, sinh ngày 16-12-2009. Khi ly hôn, anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Đức Th. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh và chị L tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh và chị L tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện VB xác định quan hệ tranh chấp về Ly hôn, tranh chấp nuôi con là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, về thẩm quyền đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Lê Đình D và giao con chung là Lê Đức Th, sinh ngày 16-12-2009, cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con do không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết; về tài sản chung và nợ chung: Do hai bên không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết. Về án phí: Chị L phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn giữa nguyên đơn là chị Bùi Thị L và bị đơn là anh Lê Đình D có nơi cư trú tại huyện VB, thành phố Hải Phòng. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VB.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn là anh Lê Đình D đã nhận được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng đều vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa lần thứ hai anh D vẫn vắng mặt, chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là chị Bùi Thị L và bị đơn là anh Lê Đình D.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị L và anh Lê Đình D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 24-9-1998 nên là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được 20 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, tâm sinh lý, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm và không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L xin ly hôn, anh D không đồng ý. Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng anh D không đến Tòa án để giải quyết, không đưa ra được biện pháp gì để khắc phục những mâu thuẫn và hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị L xin ly hôn với anh Lê Đình D.

[4] Về con chung: Chị L và anh D có 02 con chung là Lê Bá D1, sinh ngày 17-11-1999, đã trưởng thành và phát triển bình thường nên không xét giải quyết và Lê Đức Th, sinh ngày 16-12-2009. Khi ly hôn, anh D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, con chung Lê Đức Th có nguyện vọng được ở với bố, chị L cũng đồng ý giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, anh D có đủ điều kiện đảm bảo được việc nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung nên Hội đồng xét xử xử căn cứ vào các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung là Lê Đức Th cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị L và anh D không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh D không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị L phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử D án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Lê Đình D .

2. Về con chung: Giao con chung là Lê Đức Th, sinh ngày 16-12- 2009, cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị L đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0017461 ngày 06-01-2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VB, thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị L và anh D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 05/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;