TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/ 2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
Lò Văn T, sinh năm 1999. Nơi cư trú: Bản N, xã P, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P và con bà: Lò Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ 00’ ngày 03/9/2020, tổ công tác Công an xã C, Sông Mã làm nhiệm vụ tại khu vực bản B, xã C, Sông Mã phát hiện một người thanh niên đang điều khiển xe mô tô hướng bản B, xã C - bản P, xã C có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác yêu cầu dừng xe mô tô để kiểm tra hành chính, người thanh niên khai nhận tên Lò Văn T - SN 1999 trú tại bản N, xã P, Mai Sơn, Sơn La. Qua kiểm tra tổ công tác phát hiện trong lòng bàn tay trái T đang cầm 01 gói nilong màu trắng bên trong có chứa 05 viên nén hình tròn màu hồng (T khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và tạm giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wavea BKS 26B2-371.49.
Ngày 04/9/2020 tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh khối lượng vật chứng và trích mẫu giám định, kết quả: 05 viên nén màu hồng thu giữ của T có tổng khối lượng là 0,49gam. Đã trích 02 viên có tổng khối lượng 0,20gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1; Vật chứng còn lại 03 viên có tổng khối lượng 0,29gam ký hiệu T.
Tại bản Kết luận giám định số 1423 ngày 07/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
“- Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng của mâu gửi giám định là 0,20gam.
- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,49gam; Loại Methamphetamine”.
Quá trình điều tra xác định được như sau:
Lò Văn T sử dụng chất ma túy từ đầu năm 2018. Khoảng 18 giờ 00’ ngày 03/9/2020, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave a BKS 26B2- 371.49 đi từ nhà đến bản Phiêng P, Phiêng C, Mai Sơn, Sơn La với mục đích để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến bản Phiêng Phụ, T nhìn thấy một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ tên, tuổi đang ngồi ở trước hiên nhà, T liền điều khiển xe mô tô tiến lại gần nói chuyện và hỏi mua được của người phụ nữ dân tộc Mông đó 05 viên Hồng phiến với giá 140.000VNĐ. Sau khi mua được ma túy, T cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái điều khiển xe mô tô đi sang bản Tre, Chiềng Cang, Sông Mã để thăm nhà bạn. Khi đi đến khu vực bản Bướm Ỏ, Chiềng Khoong, Sông Mã thì bị tổ công tác Công an xã C, Sông Mã làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.
Cáo trạng số: 02/CT-VKSSM ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, truy tố Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, Kiểm Sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Phạt bị cáo từ 15 đến 20 tháng tù. Bị cáo cư trú vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế nên miễn hình phạt bổ sung và án phí cho bị cáo; vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận, sau khi được nói lời sau cùng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về xác định tội danh:
- Ngày 03/9/2020, bị cáo bị bắt quả tang khi đang có hành vi cất giấu trái phép ma tuý, tang vật thu giữ được của bị cáo là 05 viên ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,49gam, mục đích để sử dụng.
- Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình; lời khai nhận hoàn toàn thống nhất với lời khai tại cơ quan Điều tra; phù hợp với nội dung, tội danh bản Cáo trạng; lời khai nhận của bị cáo cũng phù hợp với biên bản phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Quá trình xét hỏi, tranh luận không phát sinh tình tiết mới.
Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: Lò Văn T đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, khởi tố của cơ quan Điều tra và truy tố tội phạm của Viện kiểm sát là có căn cứ, đứng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng, tại cơ quan
Điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo sẽ được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về vấn đề khác liên quan:
- Đối với người phụ nữ dân tộc Mông theo bị cáo khai đã bán ma tuý cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể người này nên cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra, mở rộng vụ án là có căn cứ, cần chấp nhận.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave a BKS 26B2- 371.49 tạm giữ của bị cáo. Qua điều tra xác định được là tài sản hợp pháp của ông Lò Văn Phanh (bố đẻ của bị cáo) và không liên quan đến việc phạm tội. Qua kết quả tra cứu chiếc xe mô tô không phải là vật chứng trong vụ án khác nên Cơ quan Điều tra đã trả cho chủ sở hữu là có căn cứ.
[6] Vật chứng của vụ án còn lại gồm: 0,29 gam ma túy, 01 mảnh túi nilong và 01 vỏ phong bì đều là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu huỷ.
[7] Bị cáo là dân tộc thiểu số, cư trú tại vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế nên được miễn hình phạt bổ sung (là phạt tiền) và án phí.
[8 Về đề xuất mức án của Kiểm sát viên đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cần cân nhắc nhằm có hình phạt đúng mức.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: Lò Văn T 17 (Muời bảy) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 04/9/2020.
2. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu để tiêu huỷ: 0,29 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu hồng và 01 phong bì thu niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, được đựng trong 01 (một) phong bì thu đã niêm phong kín.
Toàn bộ vật chứng được mô tả (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/12/2020 giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 23/12/2020.
Bản án 29/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 29/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về