TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 06/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXXST-HS ngày 06/11/2020 đối với bị cáo:
Cứ Thị M, sinh năm 1986 tại huyện M, tỉnh Y; Nơi cư trú: Bản X, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ, tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Cứ A C (Đã chết) và bà Sồng Thị P, sinh năm 1960; bị cáo có chồng là Thào AS- hiện đang chấp hành án tại trại giam Yên Hạ và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2020 đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 13 giờ ngày 02/9/2020 tổ công tác Công an xã C phối hợp với Đồn biên phòng cửa khẩu L làm nhiệm vụ tại bản X, xã C, huyện M kiểm tra hành chính đối với Cứ Thị M đang đi bộ trên đường dân sinh. Qua kiểm tra, M tự giác giao nộp một gói nilon màu trắng bên trong đựng 07 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY nghi là Methamphetamine, M khai nhận đó là Hồng phiến của M cất giấu để sử dụng. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng thu giữ, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Cứ Thị M bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra, làm rõ.
Ngày 02/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng 07 viên nén màu hồng thu giữ của Cứ Thị M có khối lượng 0,71 gam. Lấy toàn bộ 0,71 gam làm mẫu gửi trưng cầu giám định chất ma túy, mẫu có ký hiệu M.
Tại kết luận giám định số 1420 ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định kí hiệu M là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,71 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,71 gam; loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,51 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Cứ Thị M khai nhận:
Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 01/9/2020, Cứ Thị M mang theo 150.000đ đi bộ từ nhà đến khu vực biên giới Việt - Lào giáp với bản C, xã C, huyện M để tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi, M gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 70 tuổi. Qua trao đổi, M đã hỏi và mua được của người phụ nữ đó 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 10 viên Methamphetamine, M cất giấu vào túi áo bên phải đang mặc rồi đi về nhà. Trên đường đi M lấy 03 viên ra sử dụng, còn 07 viên Methamphetamine M đem về nhà cất giấu ở dưới đệm ngủ. Đến khoảng 12 giờ ngày 02/9/2020 M mang theo gói ma túy rồi đi làm nương. Trên đường đi thì bị tổ công tác Công an xã C phối hợp với Đồn biên phòng cửa khẩu L kiểm tra phát hiện và bắt quả tang.
Tại phiên tòa bị cáo Cứ Thị M trình bày ý kiến giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Tại bản Cáo trạng số 185/CT-VKS ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Cứ Thị M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Cứ Thị M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Cứ Thị M từ 21 tháng đến 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Cứ Thị M, bắt ngày 02/9/2020: Bên trong đựng mảnh nilon màu trắng, vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Cứ Thị M, ngày 02/9/2020. kq: Dương tính; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Cứ Thị M - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 02/9/2020 tại xã C, huyện M, tỉnh Sơn La niêm phong hồi 07 giờ 45 phút, ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,51 gam.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Cứ Thị M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị tổ công tác Công an xã Chiềng Khừa phối hợp với Đồn biên phòng cửa khẩu L, huyện M thu giữ có nguồn gốc của bị cáo mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết với giá 150.000đ vào ngày 01/9/2020, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.
Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX xét thấy: Bị cáo Cứ Thị M là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 02/9/2020 bị cáo Cứ Thị M đã có hành vi tàng trữ 0,71 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Về tình tiết định khung hình phạt:
Hành vi của bị cáo Cứ Thị M không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sụ.
Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
[4] Về vật chứng, xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Cứ Thị M, bắt ngày 02/9/2020: Bên trong đựng mảnh nilon màu trắng, vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Cứ Thị M, ngày 02/9/2020. kq: Dương tính; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Cứ Thị M - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 02/9/2020 tại xã C, huyện M, tỉnh Sơn La niêm phong hồi 07 giờ 45 phút, ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,51 gam. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Cứ Thị M, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.
[6] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí. Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Cứ Thị M để đảm bảo cho việc thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Cứ Thị M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Cứ Thị M 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính ngày 02/9/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Cứ Thị M, bắt ngày 02/9/2020: Bên trong đựng mảnh nilon màu trắng, vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Cứ Thị M, ngày 02/9/2020. kq: Dương tính; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Cứ Thị M - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 02/9/2020 tại xã C, huyện M, tỉnh Sơn La niêm phong hồi 07 giờ 45 phút, ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,51 gam.
3. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cứ Thị M.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 29/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 29/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về