Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 64/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2020 về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 41 ngày 09 thàng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Danh Thị Thu G, sinh năm 1993

Địa chỉ: Số 65, ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.

Chổ ở hiện nay: Số 05/11B, ấp B, xã Đ, thành phố L, tỉnh Bạc Liêu.(có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Lương Văn Y, sinh năm 1984

Địa chỉ: số 65 , ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Danh Thị Thu G đề ngày 26 tháng 02 năm 2020; Biên bản lấy lời khai ngày 15 tháng 5 năm 2020 có nội dung sau:

Chị Danh Thị Thu G và anh Lương Văn Y hai người kết hôn nhau vào năm 2011 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 12 tháng 7 năm 2011.

Thời gian chung sống chị G và anh Y có một người con chung là cháu Lương Danh Hà M, sinh ngày 02/9/2011, hiện con đang sống với anh Y. Về tài sản chung và nợ chung, chị G xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung.

Chị G cho rằng trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, dẫn đến cãi vã với nhau do tính tình vợ chồng không hợp. Nguyên nhân chính là do anh Y thường xuyên ăn nhậu và thường dùng những lời lẽ thô tục xúc phạm đến chị. Và trong cuộc sống anh Y không lo gia đình, không quan tâm chăm sóc cho vợ con dẫn đến đời sống vợ chồng sống không hạnh phúc và hai người sống ly thân nhau từ tháng 6/2012 đến nay, trong thời gian sống ly thân chị và anh Y cũng có hàn gắn lại nhưng không kết quả. nên chị G yêu cầu được ly hôn đối với anh Y. Khi ly hôn chị G đồng ý giao con là cháu Lương Danh Hà M cho anh Y trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành và chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung chị G xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị G thì anh Y đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và thông báo triệu tập anh Y đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Y không đến Toà án hòa giải và cũng không có văn bản gởi cho Tòa án biết về ý kiến của anh đối với yêu cầu khởi kiện của chị G. Do vậy, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị G cung cấp và do Tòa án thu thập được để làm cơ sở giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a,b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Về hôn nhân: Chị Danh Thị Thu G được quyền ly hôn với anh Lương Văn Y.

Về con chung, Giao cháu Lương Danh Hà M, sinh ngày 02/9/2011 cho Y được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và Chị G được quyền thăm nom con không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do anh Y không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa giải quyết. Đương sự chịu án phí theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Danh Thị Thu G khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh Lương Văn Y và hiện nay anh Y cư trú tại ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện T thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét thấy anh Y đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao, nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như triệu tập tham gia phiên tòa nhưng Y đều vắng mặt và nguyên đơn chị Danh Thị Thu G có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1,3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Y và chị G .

[2] Về nội dung: Chị Danh Thị Thu G và anh Lương Văn Yhai người kết hôn nhau vào năm 2011 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 12 tháng 7 năm 2011 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Xét lý do yêu cầu xin ly hôn của chị G, Hội đồng xét xử thấy rằng, sau khi kết hôn chị G và anh Y hai người sống hạnh phúc không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường cải vã với nhau, nguyên nhân chính do anh Y thường dùng những lời lẽ thô tục thiếu tế nhị đối với chị và anh Y thiếu quan tâm chăm sóc gia đình, không lo đến đời sống của vợ con, xét thấy những mâu thuẫn hàng ngày trong gia đình, vợ chồng không có biện pháp giải hòa với nhau mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng dẫn đến không khả năng khắc phục và hiện tại chị G và anh Y hai người không còn sống chung nhau từ tháng 6/2012 đến nay. Cũng trong quá trình giải quyết vụ án thì anh Y cũng biết được việc chị G yêu xin cầu ly hôn đối với anh, nhưng anh Y không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nên anh Y không đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải để tìm biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng trở lại. Từ nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy rằng thời gian chị G và anh Y ly thân khá lâu, về mặt tình cảm vợ chồng thật sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đến mức trầm trọng, nên việc chị G yêu cầu xin ly hôn đối với anh Y là cần thiết. Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Danh Thị Thu G đối với anh Lương văn Y là có căn cứ đúng pháp luật.

[4] Về con chung, chị Danh Thị Thu G đồng ý giao con là cháu Lương Danh Hà M, sinh ngày 02/9/2011 cho anh Y trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành, xét thấy cháu M hiện nay đang sống với anh Y và tại biên bản lấy lời khai ngày 04/5/2020 cháu M có nguyện vọng được sống với cha là anh Y khi cha mẹ ly hôn nên việc chị G giao cho anh Y tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn là phù hợp. Từ phân tích trên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu giao nuôi con chung của chị G là có căn cứ. Giao cho Y tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Lương Danh Hà M, sinh ngày 02/9/2011đến khi con đủ 18 tuổi.

Chị G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Y không yêu cầu chị G phải cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị G xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung và anh Y không thể hiện tranh chấp về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình, Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; chị Danh Thị Thu G phải chịu án phí theo qui định pháp luật là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

[8] Các quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa, như đã phân tích, là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1,3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội và mục A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016):

Áp dụng Khoản 1 Điều 56, và các Điều 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Danh Thị Thu G đối với anh Lương Văn Y. Chị Danh Thị Thu G được ly hôn với anh Lương Văn Y.

2. Về con chung: Giao anh Lương Văn Y tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Lương Danh Hà M, sinh ngày 02/9/2011 đến đủ 18 tuổi.

Chị Danh Thị Thu G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị G không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Y không yêu cầu..

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị G xác định không có và không yêu cầu, anh Nguyện không thể hiện có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình, chị Danh Thị Thu G phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Chị G đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000219 ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng, được chuyển thu án phí.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết công khai nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, và Điều 9 Luật thi hành án dân sự.Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Trị - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;