Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 22/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU 

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 533/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị K, sinh năm 1989 Địa chỉ: ấp 5, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu 2/. Bị đơn: Anh Nguyễn Trường S, sinh năm 1987 Địa chỉ: ấp 5, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị K có đơn xin vắng mặt, anh S vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/10/2019, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Huỳnh Thị K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: giữa chị với anh Nguyễn Trường S đi đến hôn nhân do mai mối, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2007 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 09/3/2007 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị K: sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với gia đình anh S, anh S đi làm nghề biển nên cuộc sống vợ chồng cũng ổn định, hạnh phúc mặc dù thu nhập không bao nhiêu, đến năm 2017 do thấy anh S đi biển vất vả nên vợ chồng chị thống nhất lên Bình Dương xin vào công ty làm, sau khi lên Bình Dương làm thì thu nhập ổn định hơn đủ lo cho gia đình gồm vợ chồng chị và 02 người con, nhưng đến năm 2018 chồng chị làm tiền lương tháng 11.000.000 đồng nhưng không đưa tiền về phụ giúp nuôi gia đình nên từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, cãi vã nhau, hai bên gia đình có nhiều lần hàn gắn cho vợ chồng chị nhưng không có kết quả, chị và anh S đã sống ly thân với nhau từ năm 2018 cho đến nay, trong khoảng thời gian vợ chồng sống ly thân cũng có điện thoại liên lạc với nhau nhưng không tìm được biện pháp nào để hàn gắn, nay chị nhận thấy vợ chồng không thể nào tiếp tục chung sống với nhau, do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị K yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Trường S.

Về con chung: chị Huỳnh Thị K xác định trong thời gian chung sống chị và anh S có với nhau 02 đứa con chung tên Nguyễn Bảo Ph, sinh ngày 24/10/2008 và Nguyễn Bảo A, sinh ngày 17/4/2013, hiện các con đang sống chung với chị, khi ly hôn cháu Bảo Ph có nguyện vọng sống với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng, còn cháu Bảo A chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, về cấp dưỡng nuôi con chị K yêu cầu anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Huỳnh Thị K xác định trong thời gian chung sống giữa chị và anh S không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Đối với anh Nguyễn Trường S: Mặc dù anh S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh S vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh S theo đúng trình tự quy định của pháp Luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Trường S chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa chị K và anh S kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị K xác định chị không còn tình cảm với anh S. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của chị K và anh S nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị K được ly hôn với anh S là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị K và anh S ly thân với nhau chị K là người trực tiếp nuôi 02 con chung. Chị K vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, cháu Bảo Ph và cháu Bảo A có nguyện vọng được sống với mẹ là chị Huỳnh Thị K khi cha mẹ các cháu ly hôn, đây là ý kiến hoàn toàn tự nguyện của các cháu và không bị ai đe dọa hay ép buộc. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị K được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục các con chung là hoàn toàn phù hợp.

Anh Nguyễn Trường S có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị K yêu cầu anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con chung là phù hợp theo quy định tại các điều 82, 83, 110 và 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng là 745.000 đồng/tháng/cháu cho đến khi các con tròn 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về tài sản và nợ: Chị K xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị. Khi ly hôn chị K không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị K phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị K có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh S. Anh S có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị K có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị K.

Anh S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh S vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh S.

[2] Về nội dung vụ án: giữa chị K và anh S kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân thị trấn GH cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 09/3/2007 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị K đối với anh S thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị K và anh S lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Hiện anh chị đã sống ly thân với nhau một khoảng thời gian nhưng cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau.Chị K xác định vợ chồng chị không còn khả năng tiếp tục chung sống, tình cảm vợ chồng không còn. Hội đồng xét xử xét cuộc sống vợ chồng của chị K và anh S là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K đối với anh S là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng chị K và anh S sống ly thân với nhau thì 02 người con chung tên Nguyễn Bảo Ph, sinh ngày 24/10/2008 và Nguyễn Bảo A, sinh ngày 17/4/2013 là do chị K trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị K vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, cháu Bảo Ph và cháu Bảo A đều có nguyện vọng được sống với mẹ khi cha mẹ các cháu ly hôn, ý kiến của các con là hoàn toàn tự nguyện và không bị ai đe dọa hay ép buộc. Do đó Hội đồng xét xử quyết định giao con cho chị K được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị Huỳnh Thị K yêu cầu anh Nguyễn Trường S cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy hiện tại chị K đang đi làm, cũng có thu nhập, còn anh S theo chị K xác định hiện anh cũng đang đi làm thu nhập mỗi tháng khoảng 11.000.000 đồng, tuy nhiên chị không cung cấp được các tài liệu chứng cứ chứng minh thu nhập của anh S; theo quy định tại các Điều 82, 83, 110 và 116 Luật Hôn nhân và Gia đình thì chị K có quyền yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, đây thể hiện trách nhiệm làm cha, mẹ đối với con chưa thành niên; do đó, việc chị K yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con là phù hợp quy định pháp luật, từ đó cần buộc anh S cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 745.000 đồng cho đến khi cháu Bảo Ph và cháu Bảo A tròn 18 tuổi và có khả năng lao động như ý kiến đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp quy định pháp luật Anh S có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở. Nếu sau này anh S chứng minh được chị K nuôi con, nhưng không lo lắng chăm sóc tốt cho cuộc sống của con thì anh có quyền nộp đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản và nợ: chị K xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị. Khi ly hôn chị K không đặt ra yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị K phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110 và 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị K;

Xử cho chị Huỳnh Thị K được ly hôn với anh Nguyễn Trường S.

2/.Về nuôi con chung: Giao 02 người con chung tên Nguyễn Bảo Ph, sinh ngày 24/10/2008 và Nguyễn Bảo A, sinh ngày 17/4/2013 cho chị Huỳnh Thị K được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Trường S có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Trường S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Bảo Ph, sinh ngày 24/10/2008 và Nguyễn Bảo A, sinh ngày 17/4/2013 mỗi cháu 745.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 5/2020.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3/. Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí: chị Huỳnh Thị K phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004095 ngày 13 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: buộc anh Nguyễn Trường S phải nộp 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Huỳnh Thị K và anh Nguyễn Trường S được biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 22/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;