Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 16 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Phan Thị M - sinh năm 1973 (có mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã S, huyện Ư, TP. Hà Nội

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B - sinh năm 1971 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã S, huyện Ư, TP. Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn và các biên bản lấy lời khai, hòa giải tại Tòa chị Phan Thị M là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn B qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội năm 1992. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Đặc biệt anh B thường xuyên chơi bời, không tu chí làm ăn và ngoại tình. Khi chị khuyên bảo anh nên chấm dứt mối quan hệ tình cảm bất chính thì anh quay ra chửi mắng và luôn bảo chị thích thì cứ ly hôn. Chị đã cố gắng tha thứ, khuyên bảo để mong các con có một mái ấm gia đình trọn vẹn nhưng anh B không thay đổi. Càng ngày anh càng quá đáng hơn. Chính vì vậy mâu thuẫn vợ chồng càng trở nên trầm trọng. Hai bên gia đình, chính quyền địa phương cũng đã khuyên bảo nhiều nhưng anh B vẫn không thay đổi. Vợ chồng mặc dù chung sống với nhau nhưng 3 năm nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, mâu thuẫn đã quá trầm trọng, sống ly thân đã ba năm nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh B. Về con chung: chị và anh B có 02 con chung là Nguyễn Quỳnh T – sinh ngày 19/9/1993 và Nguyễn Trung Đ – sinh ngày 10/10/1996. Hiện các cháu đều đã trưởng thành nên chị không đề nghị Tòa giải quyết. Về tài sản, công nợ chung: chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Anh Nguyễn Văn B là bị đơn: không có quan điểm, ý kiến gì.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Nguyễn Văn B vắng mặt không có lý do;

chị Phan Thị M có mặt và không ai xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Phan Thị M được ly hôn anh Nguyễn Văn B. Chị M phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Chị Phan Thị M đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Nguyễn Văn B đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh B không có mặt. Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 31/8/2020 nhưng do sự vắng mặt của anh B nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh B vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Phan Thị M và anh Nguyễn Văn B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội ngày 10/02/1992 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn từ lâu. Nay chị M cương quyết xin ly hôn anh B. Anh B không có quan điểm, ý kiến gì.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: Cuộc sống chung của chị M và anh B thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống các cán bố, ban ngành đoàn thể của địa phương đã nhiều lần phân tích, khuyên bảo, hòa giải nhưng không được. Nay chị M có có đơn ly hôn chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ vào thực tế và quy định của pháp luật để giải quyết đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ.

Xét thấy: Cuộc sống giữa chị M và anh B mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân nhiều năm, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị M là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Phan Thị M và anh Nguyễn Văn B có 02 con chung là Nguyễn Quỳnh T – sinh ngày 19/9/1993 và Nguyễn Trung Đ – sinh ngày 10/10/1996. Hiện các cháu đều đã trưởng thành nên chị M không đề nghị Tòa giải quyết; anh B không có quan điểm, ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Phan Thị M không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết, anh Nguyễn Văn B không có quan điểm ý kiến nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Phan Thị M phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư;

Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Phan Thị M được quyền ly hôn anh Nguyễn Văn B.

2. Về án phí: Chị Phan Thị M phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009720 ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt nên có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;