Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 16/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 29/2020/TLST - HNGĐ ngày 07/02/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 08/5/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27/5/2020 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Mai Thị H - Sinh năm: 1994 - Địa chỉ: Thôn Hồ Nam, xã Th, huyện N, tỉnh Thanh Hóa - Có mặt.

- Bị đơn: Anh Mai Văn S - Sinh năm: 1991 - Địa chỉ: Thôn 7, xã A, huyện N, tỉnh Thanh Hóa - Vắng mặt (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/02/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Mai Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và Mai Văn S kết hôn vào ngày 25/01/2017, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày kết hôn chị và anh S chung sống đến giữa năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh S đánh đập chị, sau thời gian đó chị đã bị hoảng loạn về tinh thần khá nhiều. Chị và anh S sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, trong thời gian sống ly thân anh S còn đến quấy rối hành hung chị nhiều lần. Nay chị thấy tình cảm không còn, không thể chung sống với nhau được nữa, chị yêu cầu được ly hôn anh S.

Về con: Vợ chồng anh có 01 con chung là Mai Quốc A - Sinh ngày 20/02/2018. Hiện cháu Quốc A đang ở với chị. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, anh S đã biết được chị H khởi kiện xin ly hôn anh ra Tòa án nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt, không hợp tác, không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không nêu ý kiến của mình, nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên nên Tòa án tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo quy định tại khoản 3 Điều 208 BLTTDS.

Tại phiên tòa hôm nay, anh S vắng mặt nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh S, còn chị H vẫn giữ nguyên quan điểm của mình là được ly hôn với anh S và yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

 - Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn không chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mai Thị H, cho chị H được ly hôn anh Mai Văn S. Về con: Giao cháu Mai Quốc A - Sinh ngày 20/02/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; anh S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Chị Mai Thị H phải chịu án phí DSST về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của chị Mai Thị H, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Mai Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Mai Văn S. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Nga Sơn.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã đến tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho anh Mai Văn S biết việc chị Mai Thị H xin ly hôn anh. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án anh S vắng mặt nên không thống nhất được hướng giải quyết vụ án. Ngày 27/5/2020, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử lần thứ nhất, anh S vắng mặt không có lý do nên phải hoãn phiên tòa. Như vậy, việc anh S không đến Tòa án để giải quyết vụ án là trường hợp cố tình trốn tránh, nên theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử lần hai - vắng mặt anh S.

[2] Về hôn nhân:

Chị Mai Thị H và anh Mai Văn S kết hôn ngày 25/01/2017, trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình đồng ý, không cản trở, cưới có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Anh chị sống đến giữa năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh S hành hung, đánh đập chị H, dẫn đến anh chị sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau.

Tại biên bản xác minh ngày 25/02/2020, đại diện thôn 7, xã A cho biết anh S và chị H sau ngày kết hôn thì chung sống tại nhà anh S, được khoảng 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn, do anh chị chửi bới, đánh đập nhau, chị H về bên ngoại ở từ đó đến nay, không thấy về nhà anh S.

HĐXX thấy cuộc hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần giải quyết cho chị H được ly hôn anh S là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung:

Chị H và anh S có 01 con chung là Mai Quốc A - Sinh ngày 20/02/2018. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi con. HĐXX thấy, từ khi chị H và anh S sống ly thân nhau đến nay cháu Quốc A ở với chị H, hiện anh S không thường xuyên có ở nhà và không quan tâm đến cháu, mặt khác, cháu Quốc A đang còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của người mẹ, nên xử giao cháu Quốc A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn.

Về mức cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên miễn xét.

[4] Về tài sản: Chị H không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Mai Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật TTDS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Mai Thị H, cho chị Mai Thị H được ly hôn anh Mai Văn S.

2. Về con: Giao cháu Mai Quốc A - Sinh ngày 20/02/2018 cho chị Mai Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Mai Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST mà chị đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2019/0010671 ngày 07/02/2020 của Chi cục THADS huyện Nga Sơn; chị H đã nộp đủ tiền án phí DSST.

4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh S có quyền kháng bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 16/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;